Xác thịt về đâu – Samuel Butler

Tiếng clarinet, cello, và trombone cất lên hỗn loạn như những tạo vật than van ai oán trong sách Ezekiel, thật nghịch tai nhưng đầy thống thiết. Rồi vang lên giọng oang oang ầm ĩ của người thợ rèn nghe như thể con bò Basan cất tiếng rống, rồi đến giọng nhẹ nhàng của người thợ mộc, tiếp theo là giọng chắc mạnh của người mục đồng với mái tóc đỏ, tiếng anh át hẳn những người khác, cho đến đoạn ‘Những mục tử với đoàn chiên trung thành’ thì tính e lệ làm anh bối rối, và khiến anh nín hẳn, cho dẫu chất giọng của anh vẫn còn dư rất nhiều. Họ khốn khổ và mặc cảm tội lỗi ngay từ lúc đầu tiên tôi thấy họ, nhưng chất ca viên vẫn còn trong mình, và họ hát to lên:

‘Những bàn tay độc ác đã đâm vào và giữ lấy Ngài, xuyên sâu ghìm chặt Ngài trên cây thập giá.’

Nhưng tôi chẳng còn thêm lời nào để tả cho đúng về đoạn này nữa.

Rất lâu về sau, lần cuối cùng tôi dự lễ nhà thờ Battersby, có một cô gái dễ thương ngồi chơi hạc cầm cùng dàn đồng ca thiếu nhi, và chúng hát thánh ca đúng giai điệu nhất, tôi nhớ đó là bài Thánh ca xưa và nay; còn những chiếc ghế dành riêng đã không còn, chính xác thì chỗ cho dàn đồng ca thời xưa đã bị bỏ đi như một thứ xấu xa gợi cho người ta về sự phân biệt địa vị. Lúc đó Theobald đã già, còn Christina đã yên nghỉ dưới gốc thủy tùng trong vườn nhà thờ rồi.

Nhưng tối sau hôm đó, tôi lại thấy ba người đàn ông rất già đang cười khoái trá trong một nhà nguyện bất chính thống, và chắc chắn đó là người thợ rèn, người thợ mộc, và người mục đồng năm xưa. Trên gương mặt họ toát lên sự mãn nguyện, và tôi tin chắc rằng đó là do họ đã được hát, cho dù không chắc là có dàn nhạc đệm như xưa hay không, nhưng dù gì họ vẫn được hát những bài ca Sion thời xưa chứ không phải cất lên những bài ca theo phụng vụ mới.

Chương 15

Bài thánh ca đã thu hút sự chú ý của tôi, lúc nó kết thúc tôi mới có thời gian để nghĩ về cộng đoàn này. Họ chủ yếu là những nông dân mập mạp, khá sung túc, một vài người trong số họ đưa theo vợ con từ những trang trại xa xôi cách đó vài dặm, họ ghét chế độ Giáo hoàng và ghét bất cứ thứ gì người ta xem là có liên quan đến Giáo hoàng, họ cũng là những người tốt, tử tế, căm ghét giáo điều dưới mọi hình thức, lý tưởng của họ là giữ vững nguyên trạng mọi thứ và có lẽ là họ hoài niệm đầy âu yếm những thời chiến tranh xưa, họ còn ý thức sai lầm rằng mình có thể hoàn toàn điều khiển được thời tiết, họ mong muốn giá cả lên cao và tiền công xuống thấp, nhưng ngược lại, thấy hài lòng khi mọi thứ ít biến động nhất, nếu không yêu mến thì họ cũng cam chịu những gì đã quen thuộc, và ghét tất cả những gì chưa quen, hẳn họ đều sẽ thấy gớm ghiếc khi nghe nói, hoặc nhìn thấy trong thực tế, một ai đó hoài nghi đạo của họ.

‘Liệu giữa Theobald và giáo dân của anh có được điểm chung nào hay không?’ Christina nói với tôi, lúc Theobald không hiện diện ở đó. ‘Tất nhiên là không nên phàn nàn, nhưng chắc chắn tôi rất đau lòng khi thấy một người đầy khả năng như Theobald bị đẩy vào một nơi như thế này. Nếu chỉ cần chúng tôi ở Gaysbury mà thôi, nơi có ông này, bà kia, ngài nọ ở gần, như anh cũng biết đó, thì tôi sẽ không thấy như thể mình đang sống giữa sa mạc như thế này, nhưng tôi tin vào những khả năng tốt nhất có thể có,’ cô tươi giọng lên, ‘và tất nhiên nếu Giám mục có đi đâu đó gần đây thì hẳn ngài sẽ ghé thăm chúng tôi, chứ nếu như chúng tôi đang ở Gaysbury, thì thế nào ngài cũng sẽ chỉ ghé qua nhà một ngài lớn nào đó mà thôi.’

Có lẽ tôi đã nói đủ nhiều để trình bày cho các bạn biết nơi anh được bổ nhiệm là chốn như thế nào, và vợ anh là kiểu đàn bà nào. Còn nói về công chuyện thường ngày của anh, tôi đã từng thấy anh mệt mỏi lê bước trên những con hẻm bùn lầy và những cánh đồng đầy chim choi choi để thăm viếng người vợ sắp chết của một lão nông. Anh lấy thịt và rượu từ nhà mình mà cho bà, không phải chỉ cho một ít, mà thực sự anh rất rộng tay trong việc này. Theo quan điểm của mình, anh làm những gì mà anh thấy hài lòng để đem lại sự khuây khỏa trong tâm hồn.

‘Thưa ngài, tôi sợ rằng tôi phải xuống hỏa ngục,’ người bệnh nói với giọng rên rỉ. ‘Ôi thôi, xin ngài hãy cứu tôi, cứu tôi với, đừng để tôi phải xuống đó. Tôi không chịu nổi điều này, ngài ơi, tôi sẽ chết trong sợ hãi mất, ý nghĩ đó khiến tôi đổ mồ hôi lạnh suốt.’

‘Bà Thompson,’ Theobald trang trọng đáp lời, ‘bà phải tin vào máu vô giá Đấng Cứu Chuộc đã đổ ra; chỉ có mình Ngài mới cứu được bà.’

‘Nhưng, thưa ngài,’ bà nói giọng buồn bã, ‘ngài có chắc là Chúa sẽ tha thứ cho tôi hay không, bởi tôi đã không sống tốt, chắc chắn là không tốt; và nếu tôi hỏi Chúa rằng tội của tôi có được tha hay không, liệu Ngài có đáp lời ‘Có’ hay không?’

‘Nhưng bà Thompson ơi, tội lỗi của bà đã ĐƯỢC tha,’ Theobald nói với giọng nghiêm nghị, bởi cách nói như thế đã hiệu quả nhiều lần rồi, và anh đã nâng đỡ cho nỗi sợ của người đàn bà này trong suốt mười lăm phút. Rồi anh chấm dứt câu chuyện bằng cách lặp lại những lời cầu nguyện trong bản kinh ‘Thăm viếng người bệnh,’ và với những bày tỏ lo âu hơn về tình trạng của bà, nhưng chính anh lại khiến cho con người khốn khổ này càng sợ hãi và lo lắng hơn nữa.

‘Thưa ngài,’ bà kêu lên thảm thương lúc thấy anh chuẩn bị quay đi, ‘ngài không thể nói với tôi rằng không có Ngày Phán xét, và không có Địa Ngục nào cả, hay sao? Không có Thiên Đàng tôi chịu được, nhưng tôi không chịu nổi Địa ngục.’ Theobald đã bị kích động nhiều vì lời này.

‘Bà Thompson à,’ Theobald nhẹ nhàng đáp lại, ‘tôi nài xin bà hãy chấp nhận không chút nghi hoặc về hai tảng đá góc trong tôn giáo của chúng ta, nhất là trong thời khắc này. Nếu có điều gì chắc chắn, thì đó là chúng ta sẽ trình diện trước Ngai Đức Kitô, và kẻ dữ sẽ chết dần mòn trong biển lửa không bao giờ tắt. Bà Thompson, nếu bà hoài nghi điều này, thì bà sẽ mất linh hồn.’

Người đàn bà tội nghiệp vùi đầu vào trong chăn với nỗi sợ lên đến cực điểm, cuối cùng, trong những giọt nước mắt trào ra, bà được nhẹ lòng hơn đôi chút.

‘Bà Thompson,’ Theobald nói khi đang đứng ở ngưỡng cửa, ‘hãy bình tĩnh lại; bà phải đón nhận lời của tôi rằng vào Ngày Phán xét, tội lỗi của bà sẽ được rửa sạch trong máu Con Chiên.’ anh nói tiếp trong quay cuồng, ‘Đúng, cho dẫu chúng có đỏ như máu, cũng sẽ được trắng như bông,’ và rồi anh rời khỏi túp lều tranh hôi hám đó nhanh nhất có thể để về lại với không khí trong lành bên ngoài. Ôi, thật nhẹ lòng biết bao khi chấm dứt được buổi nói chuyện này!

Anh về lại nhà, ý thức rằng anh đã làm xong trách nhiệm của mình, và đã mang được sự an ủi tôn giáo đến cho một tội nhân đang hấp hối. Người vợ đáng ngưỡng mộ của anh đang chờ ở nhà, và đoan chắc với anh rằng chưa có một mục sư nào lại tận tụy với con chiên của mình như anh. Anh tin cô, về bản chất, anh có thiên hướng tin tưởng tất cả những gì người ta nói với anh, và còn ai biết chuyện hơn vợ của anh nữa đây. Anh chàng tội nghiệp! Anh đã làm hết sức mình, nhưng một con cá rời xa mặt nước, thì dù làm hết mình nó sẽ được cái gì đây? Anh đã cho họ thịt và rượu, đó là những gì anh có thể làm; anh sẽ lại ghé thăm và lại cho họ thêm thịt rượu; ngày qua ngày, anh lại lê bước qua những cánh đồng đầy chim choi choi, và cuối cùng, đều lắng nghe một nỗi sợ hãi lo xa giống nhau. Ngày qua ngày, anh vẫn im lặng, nhưng không rời đi, cho đến tận lúc sự suy nhược quá đỗi khiến người bệnh không còn bận tâm đến tương lai của mình nữa, và Theobald hài lòng rằng giờ đây tâm hồn bà ta đã được nghỉ ngơi yên bình trong tay Chúa.

Chương 16

Trong số những trách nhiệm nghề nghiệp của mình, anh không thích thú gì việc đi thăm bệnh nhân này, thực sự là anh ghét nó, nhưng lại không dám thừa nhận với chính mình điều đó. Thói quen không dám thừa nhận với chính mình đã ăn rễ thâm căn cố đế trong anh rồi. Dù vậy, chúng vẫn ám ảnh trong anh một ý thức rõ ràng và không lành mạnh, đó là cuộc đời sẽ thoải mái hơn nếu như không có những tội nhân đau bệnh, hoặc nếu không thì họ cũng nên lãnh đạm hơn với sự trừng phạt đời đời. Anh không thấy mình đang sống đúng môi trường. Dường như môi trường này hợp hơn với những người nông dân. Họ đầy đặn, khỏe mạnh và mãn nguyện, nhưng giữa anh và họ có một hố sâu lớn ngăn cách. Trên khóe miệng anh bắt đầu hằn lên vẻ nặng nề và co lại, đến nỗi nếu anh không mang bộ áo đen và dải băng trắng, những đứa trẻ vẫn có thể nhận ra anh là một mục sư.

Anh biết là anh đang thực thi bổn phận của mình. Mỗi ngày trôi qua anh càng chắc chắn về nó hơn, nhưng rồi anh lại chẳng có nhiều việc để làm. Anh buồn vì mong muốn có một việc gì đó để làm. Anh không hứng thú gì với các môn thể thao ngoài trời, những thứ được xem là không thích hợp với một mục sư cách đây bốn mươi năm. Anh không cưỡi ngựa, không săn bắn, không câu cá, không đua ngựa, và cũng không chơi cricket. Anh cũng chưa bao giờ thích học hành hết sức mình, và ở Battersby này có động lực gì để anh phải vùi đầu vào sách vở chứ? Sách cũ hay sách mới, anh đều không đọc. Anh chẳng có hứng thú với nghệ thuật hay khoa học, hay chính trị, nhưng lại mau chóng thay đổi thái độ nếu có ai đó nói về những tiến bộ mới mà anh chưa biết. Thật sự là anh tự viết những bài giảng của mình, nhưng ngay cả vợ anh cũng cho rằng, điểm mạnh của anh chính là đời sống gương mẫu (một đời sống tận hiến lâu dài) hơn là đứng trên bục giảng. Sau bữa ăn sáng, anh rút về phòng nghiên cứu sách vở, ở đó, anh cắt một vài mẩu nhỏ trong sách Kinh Thánh và tỉ mỉ dán chúng cho thật khéo bên cạnh nhau, việc này được anh gọi là Tân Cựu Ước hòa hợp. Sát bên những mẩu này, anh sao chép lại thật hoàn hảo những mẩu viết tay của mede (người duy nhất, theo Theobald, thật sự hiểu được sách Khải huyền), Patrick, và những thần học gia cổ khác. Anh đều đặn làm việc này suốt nửa tiếng mỗi buổi sáng suốt nhiều năm, và kết quả của nỗ lực này thật đáng giá. Vài năm sau, anh dạy con cái mình học, và hằng ngày chúng đều thét lên rằng những gì trong sách lại đang nói về những chuyện khủng khiếp trong nhà của chúng. Anh cũng thu thập mẫu cây, và nhờ cha mình, đã một lần anh được nhắc đến trong Báo Thứ bảy về việc là người đầu tiên khám phá ra một giống cây ở vùng phụ cận Battersby, tên gì thì tôi quên mất rồi. Số báo này được anh gói trong da dê, và đặt nơi bàn phòng khách. Anh thường đi vẩn vơ trong vườn, và nếu nghe thấy tiếng gà mái cục tác thì liền chạy vào báo Christina rồi đi tìm quả trứng ngay lập tức.

Tác giả: