Xác thịt về đâu – Samuel Butler

Lúc đầu nó cũng chẳng thể nói được gì. Một phút sau, sự im lặng bị phá vỡ. Lấy hết sức lực, nó nói với giọng trầm yếu ớt:

‘Mẹ, chúng ta phải xa nhau thôi.’ (từ mẹ lần này vừa nghiêm trọng vừa lạnh lùng quá đỗi) Và quay về phía cai ngục, nó nói: ‘Tôi tin là tôi đã tự do để rời khỏi đây nếu tôi muốn. Ông không thể bắt tôi phải ở đây thêm phút nào nữa. Xin vui lòng đưa tôi ra cổng.’

Theobald bước lên đến gần nó. ‘Ernest, con không thể, không được bỏ chúng ta như thế này.’

‘Đừng nói chuyện với con’ Ernest nói, và đôi mắt nó tóe lên một ánh lửa mà cha mẹ nó chưa từng thấy bao giờ. Một cai ngục khác đến và tách Theobald sang một bên, trong khi người kia đưa Ernest ra cổng.

‘Hãy nói với họ giùm tôi rằng,’ Ernest nói, ‘họ phải nghĩ về tôi như một kẻ đã chết, bởi tôi đã chết với họ rồi. Nói với họ rằng tôi đau đớn nhất lúc nghĩ về nỗi nhục nhã đã gây ra cho họ, và trên tất cả mọi thứ, tôi sẽ học cách để từ nay về sau không làm tổn thương họ nữa, nhưng cũng xin nói giùm rằng, nếu họ có viết thư cho tôi, tôi sẽ chẳng đọc và sẽ gửi trả lại, còn nếu họ đến tìm tôi, tôi buộc phải tự bảo vệ mình bằng mọi giá có thể.’

Vừa nói xong thì cũng đã đến cổng, và chỉ một giây sau, nó đã là một người tự do. Sau khi bước được vài bước ra ngoài, nó quay lại, dựa đầu vào tường nhà tù và bật khóc với con tim đau đớn.

Từ bỏ cha và mẹ vì Chúa Kitô không phải là một chuyện dễ dàng. Nếu một người bị quỷ nhập vào quá lâu, thì lúc xuất ra, dù là theo lệnh trừ quỷ đi nữa, nó sẽ giày vò anh ta khủng khiếp. Ernest không nán lại đó lâu bởi sợ rằng cha và mẹ nó có thể bước ra bất kỳ lúc nào. Nó xốc lại mình và dấn bước vào mê cung vô số những lối đi đang mở ra trước mắt nó.

Nó đã vượt qua được cửa ải quan trọng của đời mình, có thể không quá hào hùng và kịch tích, nhưng kịch tính chỉ là tác phẩm của kịch nghệ mà thôi. Dù gì đi nữa và bằng cách nào chăng nữa, nó đã lăn lê bò toài lao lên, và đã vượt qua được bờ bên kia. Dẫu trước đây, nó đã từng nghĩ rằng vào thời điểm chiến thắng này nó sẽ vui mừng nói những gì, hay khiển trách sự thiếu suy nghĩ của mình như thế nào, nhưng đến cuối cùng, chúng cũng chẳng còn mấy quan trọng nữa. Cho dù đã cố gắng thật nhẹ nhàng với cha mẹ mình, nhưng nó đã rất phẫn nộ khi họ lao đến nó mà không báo trước và lao đến ngay đúng thời điểm nó đang phấn khích vì được trở lại với cuộc sống tự do. Đó là điểm đánh động nó nhất, và nó mừng vì họ đã làm như vậy, bởi nhờ thế mà nó nhận thức được trọn vẹn hơn bao giờ hết rằng việc đoạn tuyệt hoàn toàn với họ chính là cơ hội duy nhất của nó.

Sáng hôm đó bầu trời đổ sang màu xám, và sương mù mùa đông cũng đã chớm xuất hiện, bởi bây giờ đã là ngày ba mươi tháng chín. Ernest mặc bộ áo quần nó đã mang lúc vào tù, và bởi thế trên người nó là trang phục của giáo sỹ, còn ngoại hình của nó bây giờ vẫn y hệt như cách đây sáu tháng. Do vậy, lúc đang rảo bước trên con hẻm đông đúc bẩn thỉu Eyre Street Hill mà nó vốn biết rất rõ vì có vài người bạn giáo sỹ khác ở quanh đó, thật sự trong nó bỗng thấy những ngày tháng trong tù tan đi tựa sương khói, và những giao thiệp cũ lại chiếm lấy nó quá mạnh mẽ, cộng thêm việc thấy mình trong bộ áo cũ, khiến nó có cảm tưởng như đang bị lôi lại vào cái tôi trước đây, như thể sáu tháng trong tù chỉ là một giấc mơ mà giờ đây khi đã thức dậy để sống thật, giấc mơ đó bị bỏ lại đàng sau vậy. Đây là tác động của ngoại cảnh không đổi trên những phần bất biến của nó. Nhưng trong con người nó, có một sự đã đổi khác, và như thế ngoại cảnh không đổi này chỉ khiến mọi thứ trở nên thật lạ lẫm như thể nó chưa từng sống bên ngoài nhà tù, và giờ đây vừa được sinh vào một thế giới mới.

Trong suốt cuộc đời, mỗi ngày mỗi giờ, chúng ta gắn bó với tiến trình điều hòa những cái tôi biến động và cái tôi bất biến của mình với những ngoại cảnh cũng biến động và bất biến như vậy, thực sự đó chính là cái mà chúng ta gọi là cuộc sống, khi chúng ta không điều hòa được đôi chút thì chúng ta là kẻ ngốc, khi chúng ta hoàn toàn không điều hòa được thì chúng ta bị điên, và lúc chúng ta ngưng tạm thời sự điều hòa này là chúng ta đang ngủ, còn nếu từ bỏ không còn cố gắng điều hòa nữa thì đó chính là chúng ta đã chết. Trong những đời sống trầm lặng yên ổn, những biến động nội tại và ngoại tại quá nhỏ đến nỗi có quá ít hoặc không có căng thẳng trong tiến trình hợp nhất và điều hòa này. Có những đời sống khác lại chứa đựng quá nhiều căng thẳng, nhưng họ lại cũng có được một sức mạnh hợp nhất và điều hòa to lớn. Và cuối cùng là những đời sống khác nữa cũng có quá nhiều căng thẳng nhưng lại không có được nhiều sức mạnh điều hòa này. Đời sống con người ta có thành công hay không tùy thuộc vào việc sức mạnh điều hòa có ngang bằng với sự căng thẳng trong việc hợp nhất và điều chỉnh những thay đổi nội tại và ngoại tại hay là không.

Vấn đề là ở chỗ, đến cuối cùng, chúng ta sẽ bị lái đến nhìn nhận toàn bộ vũ trụ hợp nhất quá độ hoàn hảo, như thế buộc chúng ta phải chối bỏ cả nội tại lẫn ngoại tại, và nhìn nhận mọi sự vừa có tính ngoại tại vừa có tính nội tại, rồi như mọi thứ khác, chủ thể và khách thể, hay nội tại và ngoại tại, phải được hợp nhất với nhau. Điều này sẽ chấn động toàn bộ hệ thống của chúng ta, nhưng tất cả mọi hệ thống thế nào rồi cũng phải bị chấn động bởi một điều gì đó mà thôi.

Cách tốt nhất để thoát khỏi sự phức tạp này là tách biệt hay hợp nhất nội tại và ngoại tại, hay nói cách khác là chủ thể và khách thể, bất kỳ lúc nào chúng ta thấy thích hợp. Cách này thật phi lý, những thái cực là những điều hợp lý độc nhất nhưng luôn luôn thật không thể chấp nhận được, những thứ giữa hai thái cực thì luôn có thể thực hiện được nhưng luôn là thứ vô lý. Chính đức tin và sự phi lý là những quan tòa thượng thẩm tột cùng. Người ta nói rằng mọi nẻo đường đều dẫn đến Roma, và tất cả mọi triết lý tôi từng biết, đến tận cùng đều hoặc dẫn đến một sự phi lý ghê gớm, hoặc một kết luận mà tôi đã hơn một lần nhấn mạnh trong những trang này, đó là chính đức tin nuôi dưỡng sự đúng đắn, có nghĩa là những người biết lý lẽ sẽ sống nhờ một luật tự đặt mà họ có thể trình bày nó dễ dàng nhất, và không cần phải đặt ra quá nhiều chất vấn lý trí. Hãy cứ đưa bất kỳ sự việc và lý lẽ nào đến tận cái kết đau thương, rồi chẳng mấy chốc người ta sẽ nhận ra được rằng sự phi lý của hai thái cực này mới là nơi nương ẩn duy nhất thoát khỏi những ý nghĩ ngu ngốc rõ ràng.

Nhưng hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta. Khi Ernest đi đến cuối đường và quay đầu lại, nó thấy những bức tường bụi bẩn và buồn bã của nhà tù đang chiếm trọn tầm mắt. Nó dừng lại đôi phút, rồi tự nói với mình, ‘Ở đó, ta đã bị vây quanh bởi những chấn song mà ta có thể nhìn thấy và chạm đến, còn ở đây ta cũng bị vây phủ bởi những chấn song khác, ít thực hơn, là sự nghèo túng và sự chối bỏ của thế gian. Ta không còn cần phải cố gắng để phá vỡ những chấn song hữu hình bằng sắt hầu thoát khỏi nhà tù nữa, nhưng giờ đây khi đã tự do, chắc chắn ta phải tìm cách phá vỡ những chấn song vô hình kia.’

Nó đã đọc được đâu đó về một tù nhân vượt ngục bằng cách cắt khung cửa với một cái muỗng sắt. Nó ngưỡng mộ và kinh ngạc trước đầu óc của anh ta, nhưng không cố để bắt chước, tuy nhiên khi đối diện với những chấn song vô hình này, nó thấy mình không dễ bị uy hiếp, và thậm chí nếu khung cửa có bằng sắt mà trong tay chỉ có cái muỗng gỗ, nó vẫn có thể tìm ra được cách nào đó để khiến cho gỗ cắt được được sắt, sớm hay muộn mà thôi.

Nó quay đầu đi hết con hẻm Eyre Street Hill và bước sang Leather Lane để vào Holborn. Mỗi bước đi, mỗi khuôn mặt hay sự vật mà nó từng biết, đã giúp nối kết nó lại với đời sống trước khi vào tù, và cùng lúc đó cũng khiến nó thấy những ngày tháng trong tù đã chia đôi hoàn toàn cuộc đời nó thành hai thứ tuyệt đối khác biệt đến thế nào.

Nó đi xuống đường Fleet và đến khu Thánh Đường, nơi tôi vừa mới trở về sau kỳ nghỉ hè và đang chờ đón nó. Lúc đó là khoảng chín giờ rưỡi, và tôi đang dùng bữa sáng thì nghe thấy tiếng gõ cửa rụt rè, tôi ra mở cửa và chào đón Ernest vào nhà.

Chương 70

Tôi đã bắt đầu thấy thích nó vào cái đêm Towneley đến báo tin, và trong thời gian qua tôi nghĩ là nó đã định hình được bản thân rồi. Tôi cũng thấy thích nó khi chúng tôi trò chuyện lúc nó còn trong tù, và muốn tìm hiểu thêm về nó để xem xét nó cho thật kỹ càng. Tôi đã sống đủ lâu để biết rằng có vài người làm được những việc vĩ đại vào cuối đời lại chẳng phải là một kẻ khôn ngoan gì lúc còn trẻ, và khi biết là nó sẽ ra tù vào ngày ba mươi tháng này, tôi đã trông nó đến, cũng như đã chuẩn bị một phòng ngủ để bắt nó ở lại đây với tôi cho đến lúc nào nó xác định được sẽ làm gì tiếp theo.

Lớn tuổi hơn nó nhiều, tôi biết cách làm của tôi hoàn toàn ổn, nhưng nó lại không chịu. Và điều duy nhất nó chấp nhận là sẽ làm khách trong nhà tôi cho đến khi tìm được phòng cho mình, rồi dọn đi ngay lập tức.

Nó vẫn còn rất kích động, nhưng sau khi dùng xong bữa sáng thịnh soạn hơn hẳn chế độ nhà tù và được dọn ra trong một gian phòng ấm cúng, nó đã cảm thấy khá hơn. Tôi hài lòng khi thấy nó rạng rỡ với tất cả những thứ tôi có, lò sưởi với lửa ấm, những chiếc ghế bành, báo Times, con mèo của tôi, những cây phong lữ đỏ thắm bên cửa sổ, chưa kể đến cà phê, bánh và bơ, xúc xích và mứt cam,…v.v. Tất cả mọi thứ đều thỏa mãn những ý thích tao nhã nhất của nó. Nó cứ mãi đứng lên mà ngắm cây tiêu huyền bên cửa vẫn còn xanh lá, và nói rằng cho đến tận bây giờ nó mới biết được cái thú thực sự của những việc như thế này. Nó cứ liên tục ăn uống, nhìn ngắm, cười đùa và hò reo với một xúc cảm mà tôi không thể quên nhưng cũng chẳng thể tả nổi.

Tác giả: