Nghệ thuật ẩn mình – Kevin D. Mitnick, Robert Vamosi

Để ngăn chặn điều này, hãy tắt webcam Internet khi không dùng đến. Hành động ngắt kết nối vật lý là nhằm bảo đảm chắc chắn rằng webcam đã được tắt. Khi sử dụng chúng, hãy đảm bảo rằng chúng có xác thực phù hợp và có mật khẩu mạnh, chứ không phải mật khẩu mặc định.

Nếu bạn nghĩ ngôi nhà của mình như vậy đã là một thảm họa về sự riêng tư, vậy hãy chờ tới khi bạn đến nơi làm việc. Tôi sẽ bàn đến vấn đề này ở chương tiếp theo.

Chương 13:
Những điều sếp không muốn bạn biết

Nếu bạn đã đọc tới đây, rõ ràng bạn có quan tâm đến quyền riêng tư, nhưng đối với hầu hết chúng ta, vấn đề không nằm ở việc che giấu thông tin trước chính phủ liên bang. Thực ra, chúng ta biết rằng ở nơi làm việc, công ty có thể thấy chính xác những gì mà chúng ta đang làm trên mạng của họ (ví dụ: mua sắm, chơi trò chơi, giải trí). Rất nhiều người chỉ muốn che giấu những chuyện đó mà thôi!

Nhưng điều này càng ngày càng khó thực hiện hơn, một phần do những chiếc điện thoại di động mà chúng ta mang theo người. Bất cứ khi nào Jane Rodgers, quản lý tài chính của một công ty dịch vụ cảnh quan ở Chicago, muốn biết liệu các nhân viên thực địa có mặt ở đúng nơi cần thiết không, cô chỉ việc mở máy tính xách tay ra là biết vị trí chính xác của họ. Giống như nhiều nhà quản lý và chủ doanh nghiệp khác, cô đang chuyển sang sử dụng phần mềm theo dõi trên thiết bị điện thoại thông minh và xe tải dịch vụ do công ty sở hữu, được cá nhân hóa (COPE) có trang bị thiết bị định vị GPS để giám sát nhân viên. Một hôm, một khách hàng hỏi Jane xem nhân viên của cô có ra ngoài làm việc cho họ hay không. Sau khi gõ một vài phím, Jane xác nhận được ngay rằng từ 10 – 10:30 giờ sáng, nhân viên của cô có đến đó làm việc.

Dịch vụ di động viễn thông mà Rodgers sử dụng cung cấp nhiều khả năng hơn cả công nghệ định vị. Ví dụ, trên chín chiếc điện thoại thuộc sở hữu của công ty, cô còn có thể xem ảnh, tin nhắn, và email mà nhân viên của mình gửi đi. Cô cũng có quyền truy cập vào nhật ký cuộc gọi và lượt truy cập website của những chiếc điện thoại đó. Nhưng Rodgers nói rằng cô chỉ sử dụng tính năng GPS.

Từ lâu ngành dịch vụ đã sử dụng công nghệ theo dõi GPS. Hãng chuyển phát hàng hóa United Parcel Service (UPS) đã kết hợp công nghệ này với thuật toán lựa chọn tuyến đường do họ tự xây dựng là ORION để cắt giảm chi phí gas bằng cách theo dõi và đề xuất các tuyến đường tối ưu cho các lái xe của công ty. Họ cũng có thể phát hiện và có biện pháp xử lý những tài xế lười biếng. Bằng những cách này, UPS đã tăng khối lượng hàng hóa vận chuyển thêm 1,4 triệu gói hàng mỗi ngày, trong khi số lượng tài xế giảm đi hơn 1.000 người.

Tất cả những điều này mang lại lợi ích cho các nhà tuyển dụng, bởi họ vẫn nói rằng bằng cách ép để thu về mức lợi nhuận cao hơn, họ sẽ có khả năng nâng cao mức lương cho người lao động. Nhưng nhân viên cảm thấy thế nào? Hoạt động giám sát này có một nhược điểm. Trong một phân tích, tạp chí Harper’s giới thiệu về một tài xế được theo dõi bằng các công cụ điện tử trong khi làm việc. Người này cho biết phần mềm xác định thời gian giao hàng của anh theo từng giây và thông báo bất cứ khi nào anh chậm hoặc nhanh hơn thời gian tối ưu. Thông thường, mỗi ngày anh làm quá thời gian tối ưu tới bốn giờ.

Chểnh mảng chăng? Lái xe đã chỉ ra rằng một điểm dừng có thể bao gồm nhiều gói hàng – phần mềm ORION không phải lúc nào cũng tính đến việc này. Anh kể về những đồng nghiệp ở trung tâm phân phối New York cũng đang phải chiến đấu với cơn đau mãn tính ở lưng và đầu gối khi cố gắng mang theo quá nhiều hàng trong một chuyến đi mặc dù liên tục bị công ty nhắc nhở về việc xử lý quá tải, để có thể đạt hạn mức ứng với phần mềm. Như vậy, việc giám sát nhân viên này làm phát sinh chi phí về con người.

Dịch vụ thực phẩm cũng là một ngành thường xuyên sử dụng công nghệ giám sát. Từ các camera trên trần nhà của các nhà hàng cho đến các hộp thiết bị nhỏ đặt trên mặt bàn, nhân viên phục vụ có thể bị theo dõi và đánh giá bởi các hệ thống phần mềm khác nhau. Một nghiên cứu năm 2013 của các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Washington, Đại học Brigham Young, và MIT đã phát hiện ra rằng phần mềm theo dõi hành vi trộm cắp được sử dụng trong 392 nhà hàng đã làm giảm 22% hành vi trộm cắp từ phía nhân viên phục vụ. Như tôi đã đề cập, việc chủ động giám sát mọi người làm thay đổi hành vi của họ.

Hiện tại ở Mỹ không có đạo luật liên bang nào cấm các công ty theo dõi nhân viên của họ. Chỉ có tiểu bang Delaware và Connecticut yêu cầu người sử dụng lao động phải thông báo với nhân viên trong trường hợp họ đang bị theo dõi. Ở hầu hết các bang, nhân viên không biết họ có đang bị theo dõi tại nơi làm việc hay không.

Vậy còn về các nhân viên trong văn phòng thì sao? Hiệp hội Quản lý Mỹ nhận thấy 66% người sử dụng lao động theo dõi việc sử dụng Internet của nhân viên, 45% theo dõi hoạt động gõ bàn phím, và 43% theo dõi nội dung email. Một số công ty theo dõi các mục nhập lịch Outlook, tiêu đề email, và nhật ký tin nhắn của nhân viên. Bề ngoài, dữ liệu được dùng để giúp các công ty tìm hiểu cách thức sử dụng thời gian của nhân viên – từ việc nhân viên bán hàng sử dụng bao nhiêu thời gian với khách hàng, các bộ phận nào của công ty đang giữ liên lạc bằng email, cho đến việc nhân viên sử dụng bao nhiêu thời gian cho các buổi họp hành hoặc rời khỏi bàn làm việc.

Tất nhiên, ở đây có điểm tích cực: với những số liệu như vậy, các công ty có thể tăng cường hiệu quả lên lịch họp hoặc khuyến khích các nhóm giao tiếp với nhau nhiều hơn. Nhưng điều quan trọng là có người đang thu thập tất cả các dữ liệu doanh nghiệp này. Và một ngày nào đó, dữ liệu trên có thể bị chuyển sang cơ quan thực thi pháp luật hoặc ít nhất được sử dụng để chống lại bạn trong một đợt đánh giá kết quả làm việc.

Bạn không vô hình ở nơi làm việc. Bất cứ điều gì đi qua mạng cục bộ của công ty đều thuộc về công ty, chứ không phải của bạn. Ngay cả khi bạn kiểm tra tài khoản email cá nhân, đơn đặt hàng gần đây với Amazon, hoặc lập kế hoạch cho kỳ nghỉ, thì vẫn có thể bạn thực hiện những thao tác đó trên thiết bị hoặc mạng VPN do công ty trang bị cho; do đó, hãy yên tâm là có người đang theo dõi mọi thứ bạn làm.

Dưới đây là một cách dễ dàng để tránh việc quản lý, thậm chí cả đồng nghiệp, rình mò bạn: khi rời bàn làm việc để đi họp hoặc vào nhà vệ sinh, hãy khóa màn hình máy tính lại. Tôi nói nghiêm túc đấy. Đừng hớ hênh để ngỏ email hoặc các chi tiết về dự án bạn đã vất vả làm hàng tuần nay. Hãy khóa máy tính cho đến khi bạn quay lại. Phải mất thêm vài giây nữa, nhưng nó sẽ khiến bạn tránh được rất nhiều rắc rối. Đặt bộ hẹn giờ trong hệ điều hành để khóa màn hình sau một số giây nhất định. Hoặc sử dụng các ứng dụng Bluetooth để tự động khóa màn hình nếu điện thoại di động của bạn không ở gần máy tính. Tuy nhiên, có một kiểu tấn công mới sử dụng thiết bị USB chuyên biệt để phá hoại các thiết bị mà nó cắm vào. Rất nhiều văn phòng niêm phong các cổng USB trên máy tính xách tay và máy tính để bàn, nhưng nếu máy của bạn không bị niêm phong, một thiết bị USB như vậy khi được cắm vào vẫn có thể mở khóa máy tính mà không cần mật khẩu.

Ngoài các bí mật của công ty, còn có một số lượng email cá nhân tương đối lớn đi qua máy tính của chúng ta trong ngày làm việc, và đôi khi chúng ta còn in nội dung ra giấy. Nếu bạn quan tâm đến sự riêng tư, đừng làm bất cứ điều gì cá nhân trong khi làm việc. Hãy duy trì ranh giới nghiêm ngặt giữa cuộc sống công việc và cuộc sống gia đình. Hoặc nếu bạn cần phải làm một số công việc cá nhân trong giờ nghỉ ở công ty, hãy mang theo thiết bị cá nhân như máy tính xách tay hoặc iPad từ nhà đi. Và nếu thiết bị di động của bạn đã bật, đừng bao giờ sử dụng Wi-Fi của công ty và hơn nữa, hãy tắt chế độ phát SSID nếu bạn đang sử dụng điểm phát sóng di động. Chỉ sử dụng dữ liệu di động khi thực hiện những công việc cá nhân tại nơi làm việc.

Khi đến văn phòng, hãy làm việc ở văn phòng. Cũng giống như việc bạn không nên chia sẻ những chuyện quá riêng tư với đồng nghiệp, bạn cũng cần phải giữ cho các hoạt động cá nhân của mình nằm ngoài các hệ thống máy tính của công ty (đặc biệt là khi bạn đang tìm kiếm các chủ đề liên quan đến sức khỏe hoặc tìm kiếm một công việc mới).

Nói thì dễ hơn làm. Vì thứ nhất, chúng ta đã quen với sự phổ biến của thông tin và Internet. Nhưng nếu muốn làm chủ nghệ thuật tàng hình, bạn phải tự kiềm chế để bản thân không làm những điều riêng tư nơi công cộng.

Giả sử mọi thứ bạn nhập vào máy tính văn phòng đều ở chế độ công khai. Điều đó không có nghĩa là bộ phận IT đang chủ động theo dõi thiết bị của bạn hoặc sẽ có hành động phản ứng khi thấy bạn dùng chiếc máy in đắt tiền ở tầng năm để in tài liệu học cho con (mặc dù họ có thể làm điều đó). Vấn đề là, có một bản ghi cho thấy bạn đã làm những việc này, và nếu trong tương lai có phát sinh sự cố gì đó khiến bạn bị nghi ngờ, họ có thể truy cập các bản ghi về tất cả mọi thứ bạn đã làm trên máy đó. Đó là máy của họ, không phải của bạn. Và đó là mạng của họ. Điều đó có nghĩa là họ đang quét nội dung lưu chuyển trong công ty.

Hãy xem xét trường hợp của Adam, người đã tải xuống báo cáo tín dụng miễn phí trên máy tính ở nơi làm việc. Anh dùng máy và mạng của công ty để đăng nhập vào website của Cục Tín dụng. Giả sử bạn cũng tải xuống báo cáo tín dụng tại nơi làm việc. Bạn sẽ muốn in nó ra, phải không? Vậy tại sao không in nhờ máy của công ty chứ? Bởi vì nếu bạn làm như vậy, sẽ có một bản sao của tập tin PDF chứa lịch sử tín dụng của bạn nằm trên ổ đĩa cứng của máy in. Bạn không kiểm soát máy in đó. Và sau khi máy in hết hạn sử dụng và thanh lý khỏi văn phòng, bạn không có quyền kiểm soát cách ổ đĩa cứng. Một số máy in hiện đang mã hóa các ổ đĩa, nhưng bạn đã chắc chắn rằng máy in trong văn phòng của mình đã được mã hóa không? Bạn không thể.