Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

Tôi nhìn chằm chằm ra bên ngoài cửa xe taxi, dán mắt vào những đống tuyết chất cao, vào thứ ánh sáng kỳ lạ phản chiếu trên gương mặt những người phụ nữ đang thận trọng bước đi trên hè phố dưới những chiếc ô màu tùng lam. Tôi chợt cảm thấy rất rõ sự cô đơn của thành phố này, hàng tỷ linh hồn cô đơn trong những phòng ngủ, trên những khung cửa sổ cao vời vợi. Tôi nghĩ tới những thứ nằm ở phía dưới thành phố, những đường cáp điện, ống nước, ống sưởi, những ngọn lửa, tàu điện ngầm, dòng dung nham trong lòng thành phố, tiếng động bí ẩn của các đoàn tàu và những cơn động đất. Tôi nghĩ tới linh hồn của những người đã chết trong chiến tranh đứng cụm lại với nhau. Sunshine Building, tòa nhà cao nhất và được nhiều người tới thăm nhất Tokyo mọc lên đúng tại nơi thủ tướng Nhật và các tội phạm chiến tranh bị hành quyết. Tôi có một cảm giác kỳ lạ khi không ai biết được chuyện gì vừa xảy ra với tôi. Không có ai tới tìm tôi và nói: “Cô đã ở đâu suốt đêm qua? Trong túi cô có gì vậy? Tại sao cô không tới cảnh sát?” Tôi nhìn vào đôi mắt của người lái taxi trong gương chiếu hậu và tin chắc rằng ông ta đang quan sát tôi.

Tôi tới trường đại học Todai lúc chín giờ hơn. Cơn bão tuyết lại nổi lên, tuyết đậu khắp nơi, trên những chiếc xe ôtô đang đỗ và trên những ngọn đèn đường. Chiếc cổng lớn sơn đỏ theo kiến trúc Akamon của Todai giờ chỉ còn là một vệt đỏ chập chờn trong tuyết trắng, một ngọn lửa nhỏ leo lét trong cơn bão tuyết. Người bảo vệ mặc áo mưa màu đen mở cổng cho chúng tôi, và chiếc taxi chạy dọc theo đường chính cho đến khi ánh sáng bắt đầu xuất hiện trên nền trắng, và cuối cùng Viện Khoa học Xã hội hiện ra trước mắt, được chiếu sáng và trang trí như một tòa lâu đài trong truyện cổ tích.

Tôi bảo lái xe dừng lại. Tôi kéo cổ áo khoác lên và bước ra ngoài, ngước nhìn tòa nhà một lúc lâu. Đã bốn tháng trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi tới đây. Chỉ bốn tháng thôi mà tôi đã vỡ ra bao nhiêu điều. Tôi đã biết mọi chuyện, tôi đã biết cả thế giới này.

Dần dần tôi bắt đầu nhận ra một bóng người đang đứng cách tôi không bao xa, nhỏ bé như một đứa trẻ, hoàn toàn bất động trong màn tuyết kỳ ảo và chập chờn như một bóng ma. Tôi nhìn bóng dáng đó. Sử Trùng Minh. Cứ như thể những ý nghĩ của tôi đã triệu ông tới đây, nhưng sự nhiệt tình nửa vời của chúng khiến Sử Trùng Minh chỉ hiện ra như một cái bóng chứ không phải một con người bằng xương bằng thịt.

“Sử Trùng Minh,” tôi gọi khẽ, và ông quay lại nhìn tôi mỉm cười. Ông bước về phía tôi, dần dần hiện ra thật hơn trong màn tuyết trắng, như một bóng ma đang tiến hóa làm người. Ông mặc áo khoác và trên đầu là chiếc mũ nhựa kiểu dân chài quen thuộc.

“Tôi đang đợi cô,” ông nói. Da ông trắng bệch, nhợt nhạt và không được khỏe mạnh, trên mặt và trên cổ ông xuất hiện nhiều đốm chàm nhỏ như đồng xu. Bên trong, chiếc áo vét của ông cài kín cổ.

“Sao ông biết?”

Ông giơ tay ra hiệu cho tôi im lặng. “Tôi không biết. Giờ thì phải đi vào nhà và sưởi ấm đã. Đứng lâu dưới trời tuyết không tốt cho sức khỏe.”

Tôi bước theo ông lên cầu thang. Bên trong, tòa nhà ấm áp nhờ hệ thống sưởi nhiệt độ cao. Chúng tôi để lại một vệt tuyết tan trên sàn nhà. Ông đóng cửa phòng làm việc lại rồi đeo kính vào và bắt tay dọn dẹp căn phòng. Ông bật lò sưởi và pha cho tôi một tách trà nghi ngút khói. “Mắt của cô,” ông nói khi tôi đặt chiếc túi xuống và quỳ xuống sàn nhà, vô tình ngồi đúng theo tư thế seiza của trà đạo như thể nó làm tôi ấm hơn, giữ lấy tách trà bằng cả hai tay. “Cô không khỏe à?”

“Tôi… Tôi vẫn còn sống.” Tôi không thể nào khiến hai hàm răng ngừng va vào nhau lập cập. Tôi để hơi nóng của tách trà phả vào mặt. Mùi thơm ngầy ngậy của trà chiết xuất từ gạo. Một thứ mùi rất Nhật Bản. Tôi ngồi đó một lúc lâu cho đến khi người bớt run rẩy rồi ngước mắt lên nhìn ông và nói: “Tôi đã tìm ra.”

Sử Trùng Minh khựng lại, chiếc thìa bất động phía trên ấm trà. “Cô làm ơn nhắc lại được không?”

“Tôi đã tìm ra. Tôi đã biết.”

Ông thả chiếc thìa rơi vào trong ấm trà. Ông tháo kính ra và ngồi vào bàn làm việc. “Đúng vậy, tôi cũng nghĩ là cô đã tìm ra,” ông nói một cách nặng nhọc.

“Ông nói đúng. Tất cả những gì ông bảo tôi đều đúng. Chắc ông đã biết tất cả ngay từ đầu. Nhưng tôi thì không. Đó không hề là thứ tôi nghĩ. Không hề.”

“Không?”

“Không. Đây là một thứ mà Fuyuki đã có từ rất lâu rồi. Có lẽ từ nhiều năm trước.” Giọng tôi ngày càng nhỏ đi. “Đó là một đứa bé. Là xác ướp của một em bé.”

Sử Trùng Minh im lặng. Ông quay đầu sang một bên và trong giây lát miệng ông mấp máy như thể ông đang niệm thần chú. Cuối cùng ông ho lên một tiếng, đặt kính lên một chiếc hộp màu xanh cũ kỹ. “Đúng vậy,” cuối cùng ông lên tiếng. “Đúng vậy, tôi đã biết. Đó là con gái tôi.”

Chương 61

史 Nam Kinh, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937

Nhớ lại cái giây phút đó mới khó khăn làm sao, giây phút mà tôi đột ngột cảm thấy vô cùng thanh thản và tràn trề hy vọng. Sao vạn vật có thể tĩnh lặng đến thế trong vài giây phút ngắn ngủi trước khi tiếng la hét của Thu Kim vang lên khắp khu rừng.

Tôi ngẩn người nhìn xung quanh như thể ai đó vừa vô tình gọi tên tôi rồi cau mày như thể tôi không biết được mình vừa nghe thấy gì. Và rồi Thu Kim lại kêu lên lần nữa, tiếng kêu ngắn ngủi và đau đớn như một con chó đang bị đòn.

“Thu Kim?” Như một kẻ mộng du, tôi quay người lại và bắt đầu gạt đám cành cây quay về chỗ cũ. Có lẽ cô ấy sinh sớm hơn dự kiến. “Thu Kim?

Không có tiếng trả lời. Tôi rảo bước nhanh hơn. Tôi leo lên dốc và lao tới chỗ tôi ngồi trông Thu Kim ban nãy. “Thu Kim?” Im lặng. “Thu Kim?” Tôi gọi to hơn, trong giọng nói thoáng nét hoảng hốt. “Thu Kim. Trả lời tôi đi!”

Vẫn không có tiếng trả lời, và tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi thực sự. Tôi bắt đầu chạy. Chân tôi trượt trên mặt dốc, tuyết trên cành thông rơi lả tả xuống người tôi. “Thu Kim!”

Cạnh gốc cây, chiếc xe kéo đã bị lật ngược trở lại, chăn màn và đồ đạc của chúng tôi bị vứt tung tóe xung quanh. Trên mặt đất có những vết chân mờ mờ dẫn vào trong rừng.

Tôi đi theo những dấu chân này, vừa đi vừa phải cúi đầu tránh cành cây quật vào mặt đau rát. Đi được vài mét thì những vết chân này bắt đầu thay đổi. Tôi đứng khựng lại thở dồn dập, tim đập thình thịch. Dấu chân trở nên lớn hơn, tuyết ở xung quanh đó bị cào xới như thể Thu Kim đã ngã xuống đây vì đau. Hay là đã xảy ra một cuộc vật lộn. Có cái gì đó cộm lên dưới chân tôi. Tôi cúi xuống và lôi nó lên, xoay nó trong tay mình. Một miếng đai mỏng đã sờn cũ. Tâm trí tôi mụ đi, một nỗi kinh hoàng xâm chiếm lấy tôi. Đính trên miếng đai là hai chiếc thẻ quân nhân của Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản.

Thu Kim!” Tôi hét lên. “THU KIM!”

Tôi đợi. Nhưng vẫn không nghe thấy ai đáp lại. Ở đây, giữa những thân cây trơ trọi chỉ còn lại mình tôi, lắng nghe hơi thở dồn dập và tiếng mạch đập thình thịch của chính mình. “THU KIM!” Tiếng hét của tôi va vào thân cây rồi từ từ mất hút trong rừng thẳm. Tôi nhìn ngang ngửa hy vọng tìm thấy một dấu vết nào đó. Chúng đang ở đâu đó quanh đây, những tên lính Nhật đang giữ Thu Kim và dõi theo tôi với những đôi mắt vằn máu, đâu đó sau những gốc cây này, với những cây súng lưỡi lê sáng loáng…

Ở đâu đó rất gần ngay sau lưng tôi, ai đó vừa thở hắt ra. Tôi quay vụt lại hai tay vung lên trong tư thế sẵn sàng nhảy chồm về phía trước. Nhưng không có gì ngoài những thân cây màu đen, ẩm mốc, tuyết bám đầy trên cành. Tôi hít thở thật sâu, tai dỏng lên nghe ngóng. Có ai đó đang ở đây. Rất gần đây. Rồi tôi nghe thấy tiếng lá khô rơi xào xạc, khoảng ba mét phía trước, nơi mặt đất hơi lún xuống, tiếng cành cây gãy răng rắc, tiếng máy móc và một người lính Nhật bước ra từ sau một gốc cây.

Anh ta không có dáng vẻ của một người đánh trận, chiếc mũ sắt bọc lưới treo lủng lẳng ở thắt lưng bên cạnh ống đạn, quân hàm của anh ta vẫn còn nguyên. Anh ta không cầm súng mà cầm một chiếc máy quay phim, ống kính chĩa thẳng vào mặt tôi. Chiếc máy quay kêu ro ro, cán quay tay chuyển động đều đều. Người quay phim ở Thượng Hải. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Người đã quay những thước phim về lính Nhật khoe chiến tích ở Thượng Hải. Anh ta đang quay hình tôi.

Chúng tôi im lặng đứng như thế trong vài giây, tôi nhìn anh ta còn ống kính của anh ta thì chĩa thẳng vào tôi. Rồi tôi lao tới. “Cô ấy đâu?” Anh ta lùi lại một bước, chiếc camera vẫn vững vàng trên vai và đúng lúc đó tôi nghe thấy tiếng Thu Kim gọi từ phía xa, thân thiết và mong manh.

“Trùng Minh!”

Tôi sẽ nhớ mãi cái âm thanh đó. Tôi sẽ mơ về nó, sẽ nghe thấy nó khi tôi lạc trong những khoảng không trắng toát lạnh lẽo của những giấc mơ.

“Trùng Minh!”

Tôi bỏ mặc người quay phim đứng đó và lao vào trong rừng theo tiếng gọi của Thu Kim, tuyết lúc này đã cao ngập gối. “THU KIM!”

Tôi lội tuyết, nước mắt giàn giụa, sẵn sàng chờ đợi tiếng đạn rít qua đầu. Nhưng cái chết còn dễ chịu hơn rất nhiều so với những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Đằng trước, tiếng loảng xoảng không lẫn vào đâu được của lưỡi lê rung lên trong gió lạnh. Và tôi nhìn thấy chúng. Hai người bọn chúng đang đứng cách tôi khoảng một trăm mét về phía trước, bên cạnh một con đường mòn, quay lưng lại phía tôi trong những chiếc áo bành tô màu cỏ úa, đang nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên mặt đất. Một chiếc xe máy dựa vào gốc thông già đen đúa ven đường. Một tên quay lại nhìn tôi vẻ hốt hoảng. Hắn ta đội mũ vải mềm và cũng không có vẻ gì là sắp đi đánh trận, tuy nhiên, chiếc lưỡi lê của hắn đã giắt vào súng trong tư thế sẵn sàng. Trên mặt hắn ta có một vệt máu như thể Thu Kim đã cào vào mặt hắn khi hai người vật lộn với nhau. Khi tôi nhìn hắn, mắt hắn cụp xuống vẻ hổ thẹn. Trong một giây phút ngắn ngủi, tôi nhìn thấy con người thật của hắn, một đứa trẻ vị thành niên tơi tả vì chiến trận, đã không còn gì ngoài một cái đầu trống rỗng, chỉ còn tỉnh táo nhờ các loại thuốc an thần. Hắn ta không hề muốn có mặt ở đây.

Tác giả: