Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

Đó là một sự điên rồ! Trong bấy nhiêu năm tôi đã giữ vững lời thề không bao giờ nhớ về cái mùa đông đó nữa, không bao giờ đọc lại những gì tôi đã viết vào năm đó. Tôi đã kiên quyết giữ lời, thế mà không hiểu tại sao hôm nay sau khi nói chuyện với cô ta tôi đã trở về văn phòng, lần tìm theo bản năng chiếc ngăn kéo nơi cất giữ quyển nhật ký cũ kỹ và đặt nó lên bàn, nơi tôi vẫn có thể nhìn mà không chạm vào nó. Tôi tự hỏi tại sao, tại sao sau bằng ấy năm bây giờ tay tôi lại tự nhiên ngứa ngáy muốn lật giở trang đầu tiên của quyển nhật ký này? Tất cả những gì tôi có thể làm là không đưa tay ra và nhìn nó đầy thèm khát. Cô ta đã đánh thức ham muốn chết người nào vậy? Có lẽ tôi nên chôn nó đi. Đúng vậy, chôn vùi nó đâu đó, có thể ngay dưới đống sách vở này hay giấu nó vào trong một ngăn tủ bếp nơi tôi sẽ nhanh chóng quên đi sự tồn tại của nó, nơi nó sẽ không bao giờ còn làm tôi rối trí được nữa.

Hay là (và đến đây chắc hẳn giọng tôi đã trở nên im bặt), hay là tôi sẽ đọc nó. Tôi sẽ mở nó ra và bắt đầu đọc. Chỉ một câu thôi. Chỉ một đoạn thôi. Suy cho cùng, tôi giữ lại quyển nhật ký bốn mươi nghìn từ về cuộc thảm sát này làm gì nếu không phải để đọc lại nó. Những dòng chữ này thì có làm gì được tôi? Chẳng lẽ chúng có thể đâm xuyên da thịt tôi ư? Và đâu có ai quan tâm nếu tôi phá bỏ lời thề của mình để nghiến ngấu những dòng nhật ký này? Có lẽ những lời thề sinh ra là để bị phá vỡ…

Tôi tự hỏi liệu tôi rồi có nhận ra chính mình? Tôi tự hỏi, liệu tôi có bận tâm?

史 Nam Kinh, ngày 28 tháng Hai năm 1937 (ngày mười tám tháng Mười một theo lịch của Thu Kim)

Mặt trời bị làm sao thế kia? Hẳn có gì bất thường khiến mặt trời lúc bình minh trông lạ lùng đến thế! Tôi ngồi bên khung cửa sổ quen thuộc, ô cửa sổ duy nhất hướng về phía Đông, lòng tràn ngập một mối bất an. Tay tôi run lên khi viết những dòng này. Mặt trời đỏ thắm. Dường như trời và đất đang có một âm mưu mờ ám chống lại loài người nên những tia nắng được sắp xếp một cách đối xứng, vắt ngang qua bầu trời thành những vạch đỏ sẫm. Trông hoàn toàn giống như… Hoàn toàn giống như…

Trời ơi! Chuyện gì thế này? Thậm chí tôi còn không dám viết ra những từ đó. Chuyện điên rồ gì đây? Đọc được những dấu hiệu trên bầu trời cơ đấy! Tôi phải quay đi và không được suy nghĩ lung tung nữa. Tôi đang có nguy cơ nói năng linh tinh như Thu Kim hay trở thành một người mê tín như cô ấy. Tôi thường xuyên lo lắng cho Thu Kim. Nếu cô ấy thức dậy vào lúc này, cô ấy sẽ nhìn chăm chú về phía chân trời và suy xét theo kiểu nhà quê rằng có mười mặt trời thay nhau mọc lên ở đằng Đông. Mười mặt trời này phải bơi qua thế giới bên kia rồi lần lượt xuất hiện ở phía Đông theo một chu kì khép kín. Vào lúc như thế này, Thu Kim sẽ nhìn mặt trời một lúc rồi tuyên bố hẳn một mặt trời đã gặp tai nạn khi bơi qua thế giới bên kia, có lẽ nó đã bị thương, một điềm báo cho một cái gì đó khủng khiếp sắp xảy ra. Thu Kim luôn lặp đi lặp lại là cô ấy có thể nhìn thấy tương lai vì một lẽ đơn giản, tương lai chính là những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Tôi không muốn tranh cãi về các tín ngưỡng dân gian của cô ấy. Tôi luôn bất lực khi đối mặt với niềm tin của cô ấy. “Đừng bao giờ cố thay đổi con bé,” mẹ tôi đã nhắc tôi như thế trước khi bà qua đời. “Ngà voi không bao giờ mọc ra từ miệng chó, con biết đấy.”

Thế nhưng dù cho đã trở nên dễ thích nghi hơn thì tôi vẫn chưa hoàn toàn mất trí. Dù cho rõ ràng không cần phải thay đổi Thu Kim, nhưng cũng không cần phải cổ vũ cho sự mê tín của cô ấy. Như lúc này đây, không cần phải lôi cô ấy ra khỏi giường để vào trong thư phòng, nơi tôi đang ngồi trên ghế sofa kinh hoàng nhìn ngắm mặt trời.

Mặt trời lúc này còn xuống thấp hơn, nóng rẫy, đỏ rực, giống như một lão khổng lồ đang soi mói thành phố. Thu Kim sẽ gọi đó là một điềm báo. Nếu nhìn thấy nó, cô ấy có thể sẽ làm những chuyện tức cười như chạy xung quanh nhà và la hét ầm ĩ. Do đó tôi đành giữ nó cho riêng mình. Tôi sẽ không nói với bất cứ ai rằng ngày hôm nay tôi đã chứng kiến mặt trời Trung Hoa mọc lên với màu sắc và hình dáng của Hi No Maru, biểu tượng mặt trời mọc trên lá cờ của quân đội Thiên hoàng Nhật Bản.

Thế là xong! Tôi nên ném quyển sách xuống và ôm mặt vì xấu hổ. Tôi đã phá vỡ lời thề. Thật kỳ lạ là sau bao nhiêu năm không khoan nhượng, tôi lại từ bỏ, lại đầu hàng một cách chóng vánh, đột ngột vào một sáng mùa hè không có gì đặc biệt như thế này. Giờ đây khi tôi đưa tay lần giở từng trang của quyển nhật ký, tôi tự hỏi liệu tôi có tìm thấy cái gì mới mẻ? Những trang giấy đã cũ, mực viết đã mờ và nhũng chữ viết kiểu kaishu trông cổ lỗ một cách kỳ lạ. Nhưng – và thật khôi hài biết bao khi phát hiện ra rằng những vấn đề trọng yếu vẫn y nguyên như cũ – nỗi sợ hãi vẫn không thay đổi. Tôi vẫn nhận ra nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy vào buổi sáng cách đây hơn năm mươi năm về trước. Giờ đây, tôi cũng có cùng một cảm giác như thế khi tôi kéo tấm rèm cửa sổ, nhìn ra ngoài và thấy mặt trời đang chiếu xuống Tokyo.

Chương 5

Ngày hôm đó trời nóng nực và dài lê thê tới mức các vỉa hè cũng chảy mồ hôi nhớp nháp dưới chân. Mồ hôi toát ra từ những máy điều hòa không khí, rỏ lên người đi đường phía dưới và Tokyo dường như đang chuẩn bị trôi ra khỏi lục địa và xèo xèo trượt vào trong đại dương. Tôi tìm thấy một quầy bán báo và mua một lon trà xanh ướp lạnh kèm vài chiếc kẹo sôcôla dừa tan ngay trong miệng. Tôi vừa đi lướt thướt trên đường vừa ăn uống và ngay lập tức cảm thấy khỏe hơn một chút. Tôi rẽ vào đường xe điện ngầm và lẫn vào dòng người sạch sẽ, sáng láng, chiếc áo len chui cổ bẩn thỉu của tôi cọ vào những chiếc sơ mi phẳng phiu mới giặt của họ. Tôi để ý thấy người dân Tokyo không có mùi. Thật buồn cười. Tôi không ngửi thấy mùi của họ và họ cũng ít nói, tàu điện ngầm chật cứng nhưng rất im ắng giống như một toa tàu chở đầy các manơcanh.

Ngôi nhà của Jason nằm trong một khu có tên là Takadanobaba, có nghĩa là Bãi ngựa thượng. Khi tàu dừng, tôi thận trọng đặt chân lên bậc lên xuống, tò mò quan sát máy móc và những biển quảng cáo nước tăng lực. Ai đó va vào tôi và sau đó là một phút bấn loạn khi những người đi sau cố không bị ngã theo người đi trước. Hãy nhớ lấy, trong xã hội có những quy tắc mà cháu luôn phải tuân theo.

Bên ngoài ga tàu điện ngầm, đường phố chật cứng sinh viên từ trường đại học Waseda. Tôi đi lên phía đầu đường, gần chỗ ngân hàng Citibank, rồi rẽ khỏi đường chính và đột nhiên thấy mọi thứ thay đổi hoàn toàn. Tôi thấy mình đi giữa đống đổ nát của Tokyo cũ. Xa rời âm thanh ồn ã của các bảng quảng cáo điện tử là những ngõ hẻm mát mẻ, im ắng: những con phố bé xíu quanh co nằm chằng chịt sau lưng các tòa nhà chọc trời, một con đường tối tăm nhưng sống động giống như đường mòn trong rừng. Tôi nín thở và sững sờ nhìn xung quanh, mọi thứ giống như những bức tranh tôi nhìn thấy trong sách. Những ngôi nhà gỗ ọp ẹp nằm san sát, cũ kỹ, mục ruỗng, những kẻ sống sót sau hàng chục năm động đất, hỏa hoạn, bom đạn. Giữa những khe hở bên sườn mọc ra đám cây leo um tùm sum sê trông giống như những cái cây ăn thịt người.

Ngôi nhà của Jason là ngôi nhà to nhất, cổ nhất và đổ nát nhất mà tôi từng thấy ở Tokyo. Nằm trong một góc giữa hai phố nhỏ, tất cả cửa sổ tầng trệt của ngôi nhà bị bịt kín bởi những tấm ván có đóng đinh và khóa móc, cây leo chằng chịt ngóc lên từ vỉa hè cuốn lấy ngôi nhà y như những bụi gai trong câu chuyện Công chúa ngủ trong rừng. Bên sườn nhà là chiếc cầu thang dẫn lên tầng hai của ngôi nhà với chiếc cửa gỗ nhỏ, một cái chuông cũ gỉ bám đầy bụi và một mái vòm bằng nhựa để che mưa nắng.

Tôi vẫn nhớ như in bộ quần áo mà Jason mặc khi anh ta ra mở cửa cho tôi. Anh ta vận một chiếc áo sơ mi màu xanh ôliu, quần soóc và chân xỏ vội một đôi giày sa mạc méo mó không buộc dây, gót chân đè lên trên mép giày, cổ tay anh ta đeo một chiếc vòng tết bằng chỉ thêu và tay cầm một chiếc can đựng bia bằng bạc trên có dòng chữ Asahi. Bây giờ tôi mới có cơ hội nhìn ngắm anh ta kỹ hơn một chút trong ánh sáng ban ngày – anh ta có nước da trơn nhẵn, sạch sẽ như thể suốt ngày ở ngoài trời. Những từ “Anh ta thật đẹp” thoáng xuất hiện trong đầu tôi.

“Xin chào, cô gái kỳ quặc, cô thay đổi ý định à? Về việc thuê phòng ấy?” Anh ta nói, ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi.

“Còn ai sống ở đây nữa?” Tôi nhìn quanh ngôi nhà.

Anh ta nhún vai. “Tôi. Hai cô gái làm việc trong hộp đêm. Một vài hồn ma. Thật ra cũng không biết là bao nhiêu con nữa.”

“Hồn ma?”

“À, đấy là mọi người nói thế.”

Tôi im lặng một lát, ngước nhìn lớp ngói của ngôi nhà, những mái hiên uốn cong chạm hình rồng và cá heo đã bong tróc. Ngôi nhà có vẻ rộng hơn và tối hơn những nhà bên cạnh. “Thôi được, tôi không quan tâm đến chuyện ma quỷ, tôi muốn thuê phòng ở đây,” cuối cùng tôi lên tiếng và xách túi lên.

Anh ta không có ý định xách túi giùm tôi, mà dù sao thì tôi cũng chẳng biết nói gì nếu anh ta định làm thế. Tôi đi theo anh ta lên gác, bước chân của chúng tôi vang khắp nhà.

Tác giả: