Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

Tôi dừng tách trà lại ngay trước miệng, nhìn Sử Trùng Minh và hiểu ra tất cả. Sử Trùng Minh đang nói về Junzo Fuyuki.

“Đúng không?” Ông nói có phần ranh mãnh, bắt gặp ánh mắt sửng sốt của tôi. “Sao vậy? Tôi không làm cô khó chịu đấy chứ?”

“Tôi biết ông nói đến ai. Tôi nghĩ là tôi đã gặp ông ta, Junzo Fuyuki.” Mắt Sử Trùng Minh sáng lên, thông minh và sắc sảo.

“Cô đã gặp ông ta,” ông nói, hơi vươn người về phía trước. “Linh tính của tôi đã đúng.”

“Ông ta ngồi xe lăn.”

“Đúng vậy.”

“Giáo sư Sử,” tôi hạ chiếc chén xuống, “Junzo Fuyuki là một tay anh chị, ông biết chứ?”

“Dĩ nhiên rồi. Đó là điều tôi muốn nói với cô. Ông ta là một oyabun, bố già của nhà Fuyuki. Ông cầm tách trà lên từ tốn dùng thêm vài hớp rồi lại đặt xuống bàn. Ông dường như lấy lại tư thế của mình, cái tư thế nghiêm túc kiểu nhà binh trước khi nói tiếp. “Giờ tôi muốn đề nghị với cô một chuyện. Fuyuki đôi khi tỏ ra thân thiện với các nữ tiếp viên ở các hộp đêm. Ông ta thỉnh thoảng tổ chức tiệc ở nhà nơi tôi chắc chắn là ông ta cất giấu thứ bí dược mà chúng ta nói đến. Ông ta thích uống rượu và tôi tin là thỉnh thoảng ông ta cũng lơi lỏng việc bảo vệ. Có thể ông ta sẽ trò chuyện với cô và cô sẽ phát hiện ra được thành phần của thứ thuốc nói trên.”

“Tôi đã nhìn thấy nó. Ý tôi là tôi đã thấy ông ta uống một cái gì đó. Một cái gì đó… một…” Tôi nói và giơ ngón cái và ngón trỏ lên, cách nhau vài phân để diễn tả độ dài của ống thuốc thủy tinh mà tôi nhìn thấy mụ Y Tá cầm. “Một chất lỏng với thứ bột màu nâu.”

Sử Trùng Minh nhìn tôi một lúc lâu. Ông lấy tay cọ cọ vào môi như thể chúng bị nẻ. “Màu nâu?” Cuối cùng ông ta lên tiếng, cố giữ giọng bình thường.

“Không đúng như ông dự đoán à?”

“Không. Không phải vậy,” ông nói, thò tay vào túi rút ra một chiếc mùi soa lau trán. “Nó đúng y như tôi đoán. Dạng bột, cô đặc.” Ông thôi không vỗ trán nữa và đút chiếc khăn tay vào trong túi. “Giờ thì…” Ông nói, giọng bình tĩnh một cách gắng gượng. “Giờ thì, đây chính là điều cô có thể giúp tôi. Tôi cần biết thứ bột đó là gì.”

Tôi không trả lời ngay. Tôi cúi người, cẩn thận đặt tách trà xuống khay và ngồi đó, hai tay đặt trên đầu gối, hơi nghiêng người ra phía trước, vừa nhìn tách trà vừa suy nghĩ về những điều ông vừa nói. “Ông muốn nói là nếu tôi tìm ra thứ bột đó thì đổi lại, ông sẽ cho tôi xem bộ phim.”

“Đừng coi thường chuyện này. Cô không thể biết được nó nguy hiểm thế nào đâu. Nếu ai đó biết, hay nghi ngờ là tôi yêu cầu cô…” Ông giơ một ngón tay lên, vẻ mặt hết sức căng thẳng: “Ông ta không bao giờ được biết là tôi yêu cầu cô làm việc này. Cô không được trực tiếp hỏi ông ta. Cô phải hết sức thận trọng và tuyệt đối bí mật. Dù cho có phải mất hàng tuần, có khi hàng tháng.”

“Tôi không hỏi ông chuyện đó. Tôi nói là nếu tôi chấp nhận thì ông có cho tôi xem bộ phim đó không?”

“Cô đồng ý làm chuyện đó?”

“Ông sẽ để cho tôi xem phim chứ?”

Ông không hề chớp mắt. Vẻ mặt ông không hề thay đổi. Ông chỉ nhìn tôi vẻ lạnh lùng.

“Thế nào, ông có cho tôi xem…”

“Được,” ông đột ngột lên tiếng. “Được, tôi sẽ cho cô xem.”

Tôi ngập ngừng, miệng há hốc. “Ông sẽ cho tôi xem?”

“Đúng.”

“Có nghĩa là nó tồn tại. Nó thực sự tồn tại. Tôi không hề tưởng tượng ra nó?”

Ông thở dài, mắt hơi cụp xuống, một tay day day bên thái dương vẻ mệt mỏi. “Đúng là có cuộn phim đó,” ông lầm bầm. “Cô không hề tưởng tượng ra nó.”

Tôi cúi đầu xuống vì không muốn ông nhìn thấy nụ cười vừa nở bừng trên mặt tôi. Vai tôi rung lên và tôi phải dùng ngón trỏ và ngón cái của mình giữ lấy hai bên cánh mũi và khẽ lắc đầu vì lòng tôi chợt nhẹ bẫng, tiếng cười như đang vỡ lạo xạo trong tai tôi.

“Giờ thì cô có giúp tôi hay không?” Ông nói. “Cô có định giúp tôi không?”

Cuối cùng khi đã nhịn được cười, tôi bỏ hai tay xuống và ngước nhìn ông.

Lúc này vì một lý do nào đó mà trông ông nhỏ bé, nhăn nhúm và yếu ớt hơn bao giờ hết trong chiếc áo jacket sờn cũ vắt trên vai. Mắt ông nhìn chăm chú, chỉ còn thấy hai đồng tử co lại, một vệt mồ hôi mờ mờ trên sống mũi. “Cô sẽ giúp tôi chứ?”

Thật là chuyện lạ lùng. Chấp nhận một thỏa ước với một vị giáo sư già, mà với những gì tôi biết thì có thể nói là cũng mất trí hệt như mọi người vẫn gán cho tôi. Phải chăng người ta vẫn hay chấp nhận làm những chuyện lạ đời chỉ để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn? Chúng tôi ngồi đó, nhìn nhau rất lâu, tiếng côn trùng ong ong trong đầu tôi và trên trời, một chiếc máy bay đang hướng về sân bay Narita để lại trên nền trời xanh oi bức một làn khói trắng. Cuối cùng, tôi gật đầu. “Tôi đồng ý,” tôi khẽ nói. “Tôi sẽ làm chuyện đó.”

Ở dưới vườn cũng có cổng mở ra đường, tạo thành một đường hầm dưới tầng hai. Khi tiễn Sử Trùng Minh về vào đầu giờ chiều, tôi ngạc nhiên khi thấy chiếc khóa gỉ sét vẫn hoạt động và cánh cửa cũ rích đó vẫn có thể mở ra được một cách khó khăn, cho phép ông bước thẳng ra phố. “Ở Trung Quốc, chúng tôi không nghĩ về thời gian như người phương Tây. Chúng tôi tin rằng tương lai… rằng chúng tôi có thể nhìn thấy tương lai trong quá khứ.” Ông nói khi đứng bên ngưỡng cửa với chiếc mũ trên tay. Ông quay ra nhìn khu vườn một lần nữa như có ai đó thì thầm gọi tên ông. Ông giơ hai tay lên như để cảm nhận được không khí hay hơi thở của ai đó phả lên lòng bàn tay.

Tôi quay lại nhìn chăm chú vào chiếc đèn đá. “Ông thấy gì à? Sử Trùng Minh, ông đang nhìn cái gì vậy?”

“Tôi nhìn thấy… Một khu vườn. Tôi nhìn thấy một khu vườn. Và tôi thấy tương lai của nó. Đang chờ được khám phá.” Ông nói giọng nhẹ nhàng, bình thản.

Khi ông đi khỏi tôi khóa cửa lại rồi đứng một lúc trong bóng tối của đường hầm, vôi vữa rụng lả tả xung quanh để lộ những chiếc máy tiện xám màu đầy mạng nhện. Tôi nhìn ra ngoài vườn. Tôi tưởng tượng ra người cha và người mẹ của chủ nhà ở đây, đôi guốc gỗ của bà nện lọc cọc trên những phiến đá lát dọc đường đi, một chiếc ô màu đỏ tươi, và có thể là một chiếc lược bằng xương được tẩy trắng có hình con bướm, tình cờ bị rơi ra và bị lãng quên, văng vào trong đám lá mục, nằm ẩn ở đó rồi sau nhiều năm bắt đầu lẫn vào đất đá. Thần đạo Nhật cho rằng các linh hồn hóa thân vào cây cối, chim chóc và côn trùng, nhưng ở Tokyo có rất ít khu vực màu xanh và thứ hoa duy nhất người ta hay bắt gặp là những dải anh đào làm bằng nhựa treo bên ngoài các cửa hiệu dịp lễ tết. Bạn không bao giờ nghe thấy chim hót. Có lẽ, tất cả các linh hồn của thành phố đều đang ẩn nấp ở những nơi bị lãng quên như thế này.

Lúc này, đứng trong bóng tối, biết chắc rằng Sử Trùng Minh đang giữ bộ phim có ảnh hưởng lớn đến những gì đã xảy ra với tôi, khẳng định niềm tin của tôi về sự tồn tại của quyển sách màu da cam tôi đọc từ nhiều năm trước, thì tôi hiểu rằng, câu trả lời mà tôi khao khát bấy lâu đã rất gần kề, rằng không bao lâu nữa tôi có thể với tay ra và khi rút tay về, tôi sẽ nhận ra cuộn phim đã lẻn vào bên trong và nằm gọn trong tay tôi.

Chương 18

史 Nam Kinh, chiều tối ngày 12 tháng Mười hai năm 1937 (mùng mười tháng Mười một âm lịch)

Tôi viết những dòng này dưới ánh sáng của một ngọn nến duy nhất. Chúng tôi không thể mạo hiểm dùng dầu hay đèn điện. Chúng tôi phải để cho ngôi nhà trông giống như không có người ở.

Cả ngày hôm qua chúng tôi nghe thấy những tiếng nổ lớn từ phía khu di tích Hoa Vũ. Tôi bảo Thu Kim chắc đó là tiếng quân đội của chúng tôi cho nổ hào ngoài thành hoặc phá cầu bắc ngang các con kênh nhưng tôi nghe thấy mọi người thì thầm trên phố: “Đó là quân Nhật. Quân Nhật đấy.” Đầu buổi chiều, sau một hồi yên lặng, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, khiến tôi và Thu Kim phải bỏ dở công việc đang làm quay sang nhìn nhau, mặt tái ngắt.

“Cổng thành,” một cậu bé trên phố hét lên. “Cổng Trung Hoa. Quân Nhật đấy.”

Tôi lại gần cửa sổ và nhìn xuống chỗ cậu bé đang đứng, hai tay cậu dang ra như chờ đợi các cánh cửa mở tung và mọi người thò đầu ra hỏi han như thường lệ mỗi khi có chuyện gì xảy ra trong khu phố. Nhưng lần này tất cả những âm thanh có thể nắm bắt được chỉ là tiếng kéo cửa lén lút. Cậu bé nhanh chóng nhận ra không khí im ắng. Cậu hạ tay xuống rồi bỏ đi.

Tôi quay lại. Thu Kim đang ngồi như hóa đá, hai tay khoanh lại, khuôn mặt bất động như cẩm thạch. Cô ấy đang mặc một chiếc sườn xám ở nhà và một chiếc quần màu nâu sòng khiến nước da của cô ấy trông trắng nhợt. Tôi vẫn đứng nhìn cô ấy, lưng xây lại phía cửa sổ đang mở, phố xá vắng lặng sau lưng. Những ngày này, ánh sáng trong thành phố trông rất lạ, trắng và trong suốt, tràn ngập khắp phòng, soi rõ từng đường nét của Thu Kim như thể tôi đang ngồi rất gần cô ấy vậy. Mặt, cổ và tay của cô ấy có những nốt nhỏ như da gà còn mí mắt của cô ấy thì mờ đi như có thể nhìn thấu những nỗi sợ hãi đang ngấm ngầm cựa quậy.

Nhìn Thu Kim lúc ấy, có cái gì đó trào dâng mãnh liệt trong tôi, cái gì đó có mùi vị của nghệ và khói bếp đậm đặc ở Phồn Dương, cái gì đó khiến tôi sặc sụa và nước mắt giàn giụa. Tôi quanh quẩn xung quanh cô ấy, hai chân líu ríu, không biết phải diễn đạt thế nào với Thu Kim. Thu Kim, tôi đã sai rồi, mình nói đúng. Tôi không thể nói cho mình biết được là tôi đang lo sợ thế nào. Hãy rời bỏ thành phố. Bây giờ hãy nhanh lên, chuẩn bị một ít đồ ăn rồi thu xếp hành lý. Đi thôi. Chúng ta sẽ kịp tới cảng Mi Đàm vào nửa đêm. Hay đỡ mất thể diện hơn thì chỉ nói, Thu Kim, kế hoạch có thay đổi chút ít

“Thu Kim…” Tôi lên tiếng. “Thu Kim, có thể chúng ta nên…”

“Chúng ta nên làm gì?” Thu Kim nói, nhìn tôi đầy hy vọng.

Tác giả: