Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

Chương 41

Đó là một thứ hãi hùng, khủng khiếp hơn bất cứ cái gì bạn có thể tưởng tượng. Đang ở trong ôtô trên đường tới nhà Fuyuki thì tôi chợt nhớ ra oshaka có nghĩa là gì và tôi đã đọc thấy nó ở đâu. Tôi ngồi phắt dậy trong xe, cố hít thở thật sâu để khỏi run lên bần bật. Lẽ ra tôi phải yêu cầu lái xe dừng lại. Lẽ ra tôi phải mở cửa, và bước ra khỏi xe ngay lập tức. Nhưng tôi như bị tê liệt vì cái ý nghĩ khủng khiếp đó cứ lan ra khắp người tôi. Khi xe dừng lại trước khu căn hộ thì mồ hôi đã đọng thành vệt lấp loáng trên gáy và dưới khuỷu chân tôi.

Xe ôtô chở chúng tôi là chiếc xe cuối cùng nên khi tôi lên tới nhà trên thì mọi người đã ngồi hết vào bàn chuẩn bị ăn tối. Bên ngoài trời rất lạnh, bể bơi đóng băng, phản chiếu muôn vàn ánh sao lấp lánh, vì vậy chúng tôi được dẫn vào một phòng ăn có trần thấp nhìn ra bể bơi. Tháp Tokyo ngay bên cạnh tòa nhà gần tới mức những sọc ánh sáng màu đỏ và màu trắng của nó hắt lên bàn ăn thành những vòng tròn lớn.

Tôi đứng quan sát căn phòng một lúc. Mọi thứ dường như vô hại. Fuyuki, nhỏ bé và trông giống như một bộ xương trong chiếc áo khoác màu đỏ của dân đua xe với dòng chữ BUD bên ngoài, ngồi ở đầu bàn trong chiếc xe lăn, vừa hút thuốc vừa gật đầu thân ái với đám khách khứa. Chỉ có vài chỗ trống còn sót lại ở chiếc bàn bên cửa sổ. Tôi chui vào đó ngồi, cúi đầu chào hai người đàn ông lớn tuổi ngồi cùng rồi vớ lấy một chiếc khăn ăn, giả vờ loay hoay với nó.

Ở phía góc phòng, đằng sau chiếc tủ trưng bày là một gian bếp nhỏ nơi các nhân viên phục vụ đang tíu tít với đám khay và ly cốc. Mụ Y Tá đứng ngay giữa khu chuẩn bị đồ ăn, cực kỳ ung dung và không chút sao nhãng bởi các hoạt động xung quanh. Mụ vẫn mặc bộ váy đen như thường ngày, đứng hơi xoay người lại với khách khứa trong phòng khiến mái tóc giả bóng lộn che bớt một phần khuôn mặt của mụ. Mụ đang thái thịt trên một chiếc thớt rộng bằng gỗ, cánh tay phủ phấn trắng xóa đưa lên hạ xuống cực kỳ khéo léo, như đang làm ảo thuật. Jason đang quan sát mụ từ cửa bếp, một tay tì lên khung cửa. Anh ta cầm một điếu thuốc cháy dở và chỉ né người sang bên mỗi khi có nhân viên phục vụ mang rượu hay đồ ăn ra ngoài. Tôi trải chiếc khăn ăn lên đùi. Mọi cử động của tôi đều trở nên máy móc và cứng nhắc do tôi không tài nào rời mắt khỏi đôi bàn tay của mụ Y Tá. Tôi thầm nghĩ không hiểu thứ thịt gì đặc biệt tới mức mụ ta phải tự tay chuẩn bị? Làm sao mụ ta có thể lấy hết nội tạng của một người đàn ông ra mà không hề làm suy chuyển tới đồng hồ đeo tay của anh ta? Các nữ tiếp viên ngồi ở chiếc bàn cạnh bếp cũng liên tục ném về phía mụ ta những cái nhìn lo ngại. Đúng là không thể chờ đợi người ta cư xử một cách bình thường khi phải chứng kiến cái cách mụ ta cầm dao và di chuyển hai tay nhanh như chớp.

Một nhân viên phục vụ đi tới góc tường phía tôi ngồi và dừng lại ở bàn chúng tôi. Anh ta bật ngón tay tanh tách vài lần rồi đột nhiên phụt ra một ngọn lửa màu xanh khiến các nữ tiếp viên nhảy chồm lên và cười như nắc nẻ. Tôi nhìn anh ta châm lửa vào chiếc bếp ga để trên bàn, điều chỉnh ngọn lửa rồi đặt lên đó một chiếc nồi đựng nước dùng bằng thép không gỉ. Những vệt tro màu đen ẩm ướt bắt đầu cháy lem nhem ở đáy nồi, và khi những bong bóng nước trắng lóa trông giống như những viên đá nhỏ xíu màu bạc bắt đầu tìm cách nổi lên trên mặt nước thì anh ta nhấc chiếc đĩa bạc bày đầy cà rốt, nấm, bắp cải và những miếng đậu phụ mịn màng xắt hình vuông, và trút vào nồi. Anh ta đảo đều mọi thứ rồi đậy nắp lại và đi sang bàn bên cạnh.

Tôi nhìn xuống tấm lót đĩa trước mặt mình. Một chiếc khăn ăn bằng vải lanh được gấp gọn gàng, một chiếc kẹp thịt bằng tre, và một chén nước sốt nhỏ, sóng sánh mỡ.

“Đây là món gì vậy? Chúng ta sẽ dùng món gì vậy ạ?” Tôi hỏi người đàn ông ngồi bên tay phải tôi.

Ông ta nhe răng cười và nhanh chóng gài chiếc khăn ăn vào cổ. “Món shabu shabu. Cô có biết món shabu shabu không?”

Shabu shabu? Có, tất nhiên là tôi có biết món này.” Tôi trả lời, xung quanh miệng như có kiến bò.

Đó là món thịt bò thái lát. Thịt tươi nguyên mang tới tận bàn, không tẩm ướp gì. Mama Strawberry hẳn sẽ không muốn thưởng thức món shabu shabu ở đây. Bà ta chắc sẽ không ăn bất cứ thứ gì trong cái nhà này vì những tin đồn đó, những câu chuyện về thứ thịt kỳ lạ có xuất xứ từ chính những gian hàng trước đây đã bán oshaka. Oshaka. Đây là một từ rất lạ, chỉ những thứ đã dùng rồi, những thứ bỏ đi, mà những thứ này thì rất ít thấy trong một thành phố hậu chiến như Tokyo ngày đó khi mà bất cứ cái gì có thể ăn được hay dùng để đun nấu hoặc đổi lấy thức ăn thì không bị vứt đi bao giờ. Nhưng khi ngồi trong ôtô, tôi chợt nhớ ra từ này còn có một nghĩa xấu khác. Các yakuza đã chơi chữ khi dùng shakaosaka, theo quan điểm Phật giáo thì từ shaka chỉ đích danh một thứ “đồ bỏ đi” rất cụ thể. Khi Strawberry nói oshaka, bà ta muốn nói về những gì còn lại của người chết.

Người phục vụ bàn nhấc vung nồi, một cột hơi nước màu hồng nhạt, hương thơm ngào ngạt bay lên. Những miếng đậu phụ nổi phềnh và lộn tùng phèo trên mặt nước đang sôi sùng sục.

Cuối cùng thì những miếng thịt bò thái lát cũng được mang tới, mỏng tang như món bò carpaccio, tới mức có thể nhìn thấy đáy của chiếc đĩa xuyên qua các lát thịt. Tôi để người phục vụ đặt một đĩa xuống bên tay trái mình nhưng không gắp thịt lên ngay như những người ngồi bên cạnh. Thay vào đó, tôi ngồi im nhìn chúng chằm chằm, cổ họng như thắt lại. Mọi người bắt đầu ăn uống rào rào, gắp miếng thịt lên, giơ ra trước mặt, để ánh đèn lấp lánh trên miếng thịt màu đỏ thắm với những đường gân màu trắng, rồi nhúng vào nồi nước sôi, trụng tới trụng lui. Sau đó dìm vào bát nước sốt rồi ngửa đầu ra sau và nhét cả miếng thịt vào trong miệng. Những giọt mỡ đọng lại dưới cằm.

Sợ mọi người phát hiện ra là mình không ăn gì, tôi đành gắp vài miếng thịt nhúng vào nồi lẩu rồi đưa lên miệng, cắn một miếng nhỏ xíu ở bên rìa. Tôi nuốt chửng, không dám thưởng thức xem cái vị của nó như thế nào vì đột nhiên nghĩ tới cảnh Sử Trùng Minh sẽ đau khổ biết bao khi buộc phải ăn những thứ này. Tôi thả chỗ thịt còn lại vào trong bát nước sốt và uống vội một ngụm rượu vang đỏ. Phía bên bàn Fuyuki, Bison cũng không ăn uống gì. Nét mặt ông ta có cái gì đó không được thoải mái khi nhìn hai chị em người Nga ngồi bên cạnh nhiệt tình đút miếng thịt bò vào miệng nhai ngấu nghiến. Đó là vì ông cũng biết chuyện đó, Bison, tôi thầm nghĩ. Ông biết tất cả những chuyện về oshaka, về món thịt hầm zanpan và về thứ thuốc mà Fuyuki tin rằng sẽ làm ông ta bất tử. Đúng thế không nào? Ông đã biết sự thật.

Những người phục vụ không còn đi ra đi vào khu vực nhà bếp nữa nên Jason chui hẳn vào trong đó. Có lúc anh ta đứng sát vào mụ Y Tá thì thầm gì đó. Mỗi lần tôi ngẩng đầu lên là lại thấy anh ta đứng đó, nói liến thoắng như đang cố thuyết phục mụ ta làm gì đó. Nhưng mụ ta không hề dừng tay, cứ như thể anh ta không hề tồn tại. Một lần anh ta quay ra bên ngoài và bắt gặp tôi đang nhìn anh ta chằm chằm. Lúc đó trông tôi hẳn trắng bệch và hoảng hốt, ngồi thẳng đơ trên ghế. Anh ta mở miệng định nói gì đó rồi đảo mắt về phía mụ Y Tá rồi kín đáo cười với tôi, như thể tôi là đồng lõa của anh ta. Anh ta thè lưỡi liếm môi dưới, miệng của anh ta hé mở trong giây lát vẻ dâm đãng.

Tôi lại nhìn xuống miếng thịt đã nguội. Một lớp mỡ trắng đã đông lại trên bề mặt. Bụng tôi đau cuộn lại, cả người óc ách khó chịu.

Ở bàn bên kia, Bison và Fuyuki đang nói về gã thanh niên gầy nhẳng, tóc nhuộm vàng hoe và da lỗ chỗ những vết rỗ đậu mùa. Là tay chân mới nên trông hắn có vẻ sốt ruột chờ được triệu tới bên bàn của Fuyuki. “Tới đây, chimpira,” Fuyuki nói. “Lại đây, chimpira, lại đây.” Chimpira là một từ tôi chưa từng nghe nói tới. Nhiều tháng sau tôi mới biết đó là một từ lóng chỉ những tay mafia mới gia nhập băng đảng. Từ này, nói một cách bỗ bã có nghĩa là “thằng cu”. Tên chimpira ra trình diện trước mặt Fuyuki, lúc này ông ta đã xoay chiếc xe lăn ra phía ngoài và dùng gậy khều khều vào chiếc áo vest màu tím nhạt rộng thùng thình của tên lính mới để lộ ra bên trong một chiếc áo thun màu đen thay vì một chiếc sơ mi như lệ thường. “Nhìn cái thứ này xem,” Fuyuki nói với Bison. “Giờ họ ăn mặc thế đấy!” Bison mỉm cười yếu ớt. Fuyuki hạ chiếc gậy xuống rồi lắc đầu như đang luyến tiếc. “Những người trẻ tuổi này. Mới thất lễ làm sao!”

Ông ta ra hiệu cho một người phục vụ quay trở vào bếp. Người ta mang tới một cái ghế và khách khứa dạt sang hai bên để tên chimpira ngồi xuống bên cạnh Fuyuki. Tên này luống cuống siết chặt hai tà áo vét để che chiếc áo thun bên trong, mặt tái mét, liếc nhìn đám khách khứa xung quanh. Chỉ khi người phục vụ quay trở ra với một chiếc khay trên có hai chiếc ly nhỏ, một bình rượu sake, một thếp giấy màu trắng và ba chiếc bát nhỏ đựng gạo và muối thì hắn mới có vẻ bớt căng thẳng. Người phục vụ còn đặt lên bàn một con cá với đôi mắt trũng sâu ngửa lên trần nhà. Tên chimpira chăm chú quan sát những thứ đồ chuẩn bị cho lễ sakazuki. Đó là một tin tốt. Fuyuki đang chào đón hắn gia nhập băng đảng. Khi nghi lễ kết nạp được bắt đầu, với việc thả vảy cá vào bình rượu, muối được vãi ra thành hình những kim tự tháp, sau đó Fuyuki và tên chimpira tuyên thệ, tôi nhận thấy tất cả mọi người trong phòng đều tập trung quan sát. Không ai nhìn về phía khu bếp nơi mụ Y Tá đã bỏ dao xuống và đang rửa tay.

Tác giả: