Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

“Xin mình đừng nhìn em như thế.” Cô ấy cố gạt tay tôi ra. “Mình muốn nói gì?”

“Tôi…”

“Gì ạ?”

Tôi thở dài rồi buông tay, cụp mắt xuống. “Thu Kim…” Giọng tôi nghẹn lại. “Thu Kim, mình đã đúng. Lẽ ra chúng ta phải đi khỏi Nam Kinh từ lâu rồi. Tôi xin lỗi mình.”

“Em biết.”

“Và…” Tôi do dự, “tôi cho là giờ đây chúng ta nên làm điều đúng đắn nhất. Chúng ta nên tìm mọi cách để trốn khỏi đây.”

Cô ấy vẫn bình thản nhìn tôi và lần này tôi không còn có thể giấu cô ấy được điều gì. Tôi đứng đó, thành thật, tuyệt vọng và đầy hối lỗi, để mặc cho mọi nỗi sợ hãi của tôi trở nên trần trụi dưới mắt của cô ấy. Cuối cùng cô ấy khẽ mím môi lại, vươn tay lấy ngọn nến và thổi tắt nó. “Tốt rồi,” cô ấy nói rồi đặt tay lên tay tôi. “Cảm ơn mình, Trùng Minh, cảm ơn mình.” Cô ấy vén rèm rồi rời khỏi giường. “Em sẽ đi nấu mì và chuẩn bị cơm cháy. Giờ chúng ta phải ăn, sau đó em sẽ đi xếp đồ.”

Tim tôi nặng trĩu. Cô ấy đã tha thứ cho tôi. Nhưng tôi cảm thấy sợ hãi, sợ tới đứng tim rằng đây có thể sẽ là lần cuối cùng tôi đặt bút viết vào cuốn nhật ký này. Sợ rằng chính tôi là kẻ sẽ giết chết cô ấy. Chúng tôi còn có hy vọng gì không? Có thể Trời Phật sẽ phù hộ cho chúng tôi. Có thể Trời Phật sẽ phù hộ cho chúng tôi.

Chương 53

Bên ngoài trời lạnh cóng. Tuyết rơi xối xả như đang trong một cơn bão. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi tôi ở trong câu lạc bộ mà tuyết đã kịp rơi kín vỉa hè và phủ đầy trên nóc những chiếc ôtô đang đỗ bên vệ đường. Tôi đứng trong một góc khuất của tòa nhà, ngay cạnh chiếc cầu thang máy và nhìn ra bên ngoài. Trong màn tuyết trắng xóa, tôi chỉ có thể nhìn thấy những gì ở cách tôi từ hai mươi mét trở lại nhưng tôi có thể cảm nhận được cả khu phố đang im lặng một cách bất thường. Không thấy ai đi trên vỉa hè, không thấy chiếc xe ôtô nào trên phố, chỉ có con quạ chết đóng băng bên miệng cống. Như thể Mama Strawberry đã đúng khi nói có một điềm xấu đang luồn lách khắp Tokyo.

Tôi giở tiền ra đếm. Tay tôi run bắn khiến tôi phải đếm đi đếm lại hai lần mà vẫn nghĩ là mình nhầm. Tôi đứng lặng đi một lúc, nhìn chằm chằm vào đống tiền trên tay. Đó không phải là tiền lương cho một tuần như tôi đoán. Strawberry đã đưa cho tôi ba trăm nghìn yên, gấp năm lần số tiền bà phải trả. Tôi nhìn xuyên qua màn tuyết lất phất lên tầng thứ năm mươi của tòa nhà, lên cái câu lạc bộ nơi nàng Marilyn vẫn đang đung đưa trên chiếc xích đu. Tôi nghĩ tới Strawberry trong bản sao những chiếc đầm của Marilyn Monroe và một cuộc đời vây quanh bởi những tay găngxtơ và những người bồi bàn trẻ tuổi. Tôi chợt nhận ra tôi chẳng biết gì về bà. Tất cả những gì tôi biết là bà có một người mẹ đã qua đời, một người chồng đã chết và ngoài hai người đó ra thì bà hoàn toàn đơn độc trên thế giới này. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ thật sự nhận ra những người vẫn quan tâm tới bạn cho tới tận khi họ đột ngột ra đi.

Ở ngã tư, một chiếc xe hơi đang từ từ lướt qua, tuyết bay rào rào trước đèn pha. Tôi thụt sâu vào gần tường, kéo cổ áo khoác lên và siết chặt lớp vải mỏng quanh cổ, người run lên vì lạnh. Strawberry có ý gì khi bảo tôi không nên dùng chiếc thang máy bằng kính? Bà có thật sự nghĩ rằng tay chân của Fuyuki đang rình mò trên phố? Chiếc xe ôtô biến mất sau tòa nhà và phố xá lại trở nên yên tĩnh. Tôi ngó ra ngoài. Cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và mạch lạc. Hộ chiếu, sách vở và mọi ghi chép của tôi vẫn nằm trong con hẻm bên hông ngôi nhà. Tôi không thể gọi điện cho Jason vì chắc là mụ Y Tá sẽ nghe trộm. Tôi phải quay trở lại ngôi nhà đó. Chỉ một lần thôi.

Tôi vội vã đếm lại số tiền của Strawberry và chia nó ra làm hai phần, mỗi bên một trăm năm mươi ngàn yên và để vào hai bên túi áo khoác. Rồi tôi đút tay vào túi và rời khỏi tòa nhà. Tôi bước nhanh ra khu phố phía sau và có cảm giác như mình đang lạc vào một thế giới kỳ diệu, những bông tuyết trắng rơi lất phất trên những cục điều hòa gắn bên ngoài, trên những hộp thức ăn bằng sơn mài xếp bên ngoài cửa hậu để những người giao hàng tới lấy đi. Tôi lại ăn mặc không phù hợp, áo khoác thì quá mỏng cộng thêm đôi giày cao gót để lại những dấu vết kỳ quặc phía sau. Đây là lần đầu tiên tôi đi giày cao gót trên tuyết.

Tôi bước đi lặng lẽ, băng qua ngã tư gần đền Hanazoro với những chiếc đèn lồng màu đỏ ma quái rồi lại chui vào một ngõ nhỏ. Tôi đi qua những cửa sổ sáng đèn, những chiếc quạt sưởi bốc hơi. Tôi nghe thấy tiếng tivi và tiếng người trò chuyện, nhưng suốt cả quãng đường tôi chỉ nhìn thấy một hoặc hai người. Tokyo dường như đang đóng kín mọi cánh cửa. Ai đó trong thành phố này, ai đó ở sau một trong những khung cửa kia, đang có trong tay thứ mà tôi tìm kiếm. Một thứ gì đó không lớn lắm. Chỉ nằm vừa vặn trong một chiếc lồng kính nhỏ. Thịt người. Nhưng không phải là cả một cái xác. Có lẽ chỉ là một bộ phận nào đó. Người ta có thể giấu một miếng thịt người ở đâu chứ? Và tại sao? Tại sao lại có người muốn đánh cắp nó? Tôi chợt nhớ đến một câu trong cuốn sách ngày xưa tôi đã đọc, hình như là của Robert Louis Stevenson thì phải: “Những kẻ đi cướp xác, không coi những quy luật tự nhiên ra gì vẫn thường bị hấp dẫn bởi tính an toàn và dễ dàng của việc làm này…”

Tôi đi theo một đường vòng cung quanh Takadanobaba để về nhà bằng con hẻm nhỏ nằm giữa hai tòa nhà. Tôi dừng lại, nấp sau một chiếc máy giải khát tự động Calpis đang phát ra những quầng sáng màu xanh nhấp nháy, thận trọng thò đầu ra quan sát con hẻm. Con hẻm vắng ngắt. Tuyết vẫn rơi lặng lẽ, lấp lánh dưới ánh sáng của những ngọn đèn lồng treo bên ngoài một nhà hàng xúp ramen. Ở phía bên trái tôi là ngôi nhà tối om và lạnh lẽo, che kín cả bầu trời. Tôi chưa bao giờ nhìn ngôi nhà từ vị trí này, nó có vẻ lớn hơn tôi nghĩ, sừng sững như một khối núi, lớp ngói cong cong trông gần như gớm ghiếc. Tôi nhận ra mình đã quên kéo rèm cửa sổ phòng, và tôi nghĩ tới chiếc đệm đang nằm trong im lặng, nghĩ tới những bức tranh Tokyo trên tường, tới hình ảnh câm lặng của tôi và Jason đang đứng dưới những dải thiên hà.

Tôi thò tay vào túi lôi ra chùm chìa khóa. Tôi cẩn thận nhìn quanh lần nữa trước khi bước vào con hẻm nhỏ, đi sát vào bên hông của ngôi nhà. Tôi nhìn lên khe hở giữa hai tòa nhà và ngó lên chiếc máy điều hòa. Chiếc túi du lịch của tôi vẫn nằm đó, chìm trong bóng tối và phủ đầy tuyết. Tôi tiếp tục bước đi sát ngôi nhà, ngay dưới cửa sổ phòng tôi. Khi chỉ còn cách khúc ngoặt khoảng mười mét thì có cái gì đó khiến tôi dừng lại. Tôi nhìn xuống chân mình.

Tôi đang đứng trong một cái rãnh dài và đen màu nhựa đường. Tôi chớp mắt nhìn. Không hiểu sao linh tính lại mách bảo tôi đứng lại. Và rồi tôi nhận ra, dĩ nhiên, đó là một vệt bánh xe ôtô. Một chiếc ôtô vừa đỗ ở đây không lâu. Mạch tôi đổ dồn. Các dấu vết bắt đầu hiện ra một cách rõ ràng. Chiếc xe hơi hẳn đã đỗ ở đây khá lâu vì vết bánh xe còn hằn lại rất rõ, một đống đầu lọc thuốc nằm trên mặt đất, ngay dưới vị trí cửa sổ của lái xe, như thể những người trong xe đã cố tình chờ đợi cái gì đó. Tôi vội vàng quay trở lại trong bóng tối, máu đông lại. Vệt bánh xe chạy dài ra đằng trước về hướng phố Waseda nơi thường có một hoặc hai chiếc xe ôtô im lìm chạy dưới tuyết. Ngoài vệt bánh xe này ra thì cả con hẻm vắng hoe. Tôi thở phào và ngước nhìn những ô cửa sổ trên ngôi nhà cũ kỹ xiêu vẹo, chỉ thấy thấp thoáng những ánh đèn vàng lấp lóe. Mọi chuyện có vẻ bình thường. Không có gì nghiêm trọng, tôi tự nhủ, liếm đôi môi nhức nhối và nhìn chằm chằm xuống vệt bánh xe trên mặt đất. Chẳng có gì đáng phải lo. Mọi người vẫn thường đỗ xe trong ngõ đấy thôi vì tìm được một chỗ vắng vẻ riêng tư ở Tokyo đâu phải chuyện dễ.

Tôi tiếp tục men theo con hẻm, tránh cái bóng của chiếc xe ôtô như thể nó là một cái bẫy ma quái. Tôi đi sát vào tường, vai quệt vào những đám tuyết đậu trên hàng rào sắt của tầng trệt ngôi nhà. Tới khúc rẽ, tôi nép vào tường, hé mắt nhìn ra phía cửa chính của ngôi nhà. Cửa đóng im ỉm y như lúc tôi bỏ đi, tuyết chất thành đống ở đằng trước. Tôi liếc nhìn con phố vắng tanh trước mặt thêm lần nữa. Dù không nhìn thấy một bóng người, tôi vẫn không khỏi run lập cập khi bước tới cửa ngôi nhà và hấp tấp tra chìa khóa vào ổ.

Jason vẫn để tivi. Từ dưới bậu cửa phòng Jason tuôn ra một dòng ánh sáng màu xanh nhấp nháy, nhưng chiếc đèn hành lang đã bị mụ Y Tá đập nát nên ngôi nhà tối om một cách bất thường. Tôi chậm rãi leo lên cầu thang, trống ngực đập thình thịch, lúc nào cũng tưởng tượng ra có cái gì đó đang từ trong hành lang lao vút về phía mình. Tới đầu cầu thang, tôi dừng lại dưới ánh đèn mờ ảo, thở hắt ra, những ký ức đêm qua chợt hiện về, giống như những chiếc bóng đang chạy dài trên bức tường trước mặt. Cả ngôi nhà im ắng. Không một hơi thở hay một tiếng cót két. Ngay cả tiếng lá cây xào xạc trong vườn cũng bị vùi trong tiếng tuyết rơi.

Tôi tới phòng của Jason, răng va vào nhau lập cập. Tôi nghe thấy tiếng anh ta thở trong chiếc tủ đựng quần áo, một tiếng thở tắc nghẽn, đặc máu, trở nên gấp gáp hơn khi tôi đẩy cánh cửa. “Jason?” Tôi gọi khẽ. Căn phòng lạnh ngắt và tràn ngập một thứ mùi hữu cơ rất khó chịu, giống như mùi phân của động vật. “Anh có nghe thấy không.”

Tác giả: