Quân khu Nam Đồng – Bình Ca

Mai Liên mang thư sang cho Việt, kèm theo một bọc gương, lược và cả sợi dây chuyền bạc đã cũ. Sợi dây chuyền này của má cho Việt. Lúc đó má nói: “Nhà ba nghèo lắm, ngày làm đám cưới, ba tặng má chỉ có sợi dây chuyền này. Giờ má cho Việt, để sau này Việt tặng con dâu của má”. Nhìn sợi dây chuyền, Việt lạnh hết người, mắt ngân ngấn nước. Nó vội nuốt tất cả yếu đuối vào trong, cau có nói với Mai Liên: “Chả nhẽ tôi lại đập những thứ này trước mặt bạn. Bạn nói với Mai Hương về nhà tôi sẽ đập nát hết!”.

Cả tuần, Việt ủ rũ. Hòa nghĩ, nếu có nhà văn nào cần mô tả một kẻ thất tình, chỉ cần đến đây tả Việt, đảm bảo sẽ tạo dựng được một nhân vật thất tình sinh động nhất thế giới.

Tối thứ Bảy, ở bể nước Nhà 2, Việt nhận được liền một lúc hai tin tình báo.

Tân Thời nói, cái Minh Anh, em nó, học lớp 9C về nhà kể chuyện: Việt bỏ Mai Hương vì Việt yêu cái Oanh “Áo Hồng” lớp 8C. Hôm đứng dưới sân, Việt đang cầm một bông hoa hoàng lan, cái Oanh xin, Việt cho luôn. Cái Oanh cài hoa lên tóc, quay sang khoe với đám bạn: “Hoa của người yêu đấy!”. Mai Hương đứng gần, quan sát từ đầu đến cuối. Minh Anh bảo: “Eo ơi, cái Oanh chỉ được mỗi cái điệu và ăn diện, chả xinh bằng Mai Hương. Giờ giải lao hôm trước, Mai Hương ngồi trong lớp khóc rồi viết thư vĩnh biệt”.

Cũng tối đó, Lượng sang báo với Việt, người chở Hương đến Đoàn Văn công Mai Dịch là chú của Mai Hương, công tác tại Đoàn Văn công Quân giải phóng, mới từ miền Nam ra Hà Nội công tác. Chú đưa Mai Hương tới Đoàn Văn công Mai Dịch, nhờ người dạy thêm nhạc lý và một số bài hát miền Nam. Lượng lúc nào cũng ngưỡng mộ và quan tâm đến Việt, nên thấy có chuyện đáng ngờ đã tự động đi điều tra giúp.

Việt nghe xong toát hết mồ hôi, nó cuống quít xuống nhà Hòa, năn nỉ Hòa viết hộ thư xin lỗi, làm lành, nhận hết tội, nhận mình là đứa hồ đồ, khốn nạn, sai trái… trừ vụ bông hoa lan. “Hôm đó tao nhặt được bông hoa ở gốc cây, đang ngửi thì Áo Hồng xin. Tao chỉ cho bông hoa thôi chứ có làm gì đâu? Nhưng mày phải viết sở dĩ tao nói chuyện với Áo Hồng là để giới thiệu cho thằng Đính vì thằng Đính mê Áo Hồng”. Đính mặc cả: “Từ nay Áo Hồng của tao nhé?”. Việt gật liền: “Cho mày luôn”. Ngọc vỗ vai Đính: “Có Áo Hồng rồi, đừng nhòm ngó Hà của tao nữa nhé!”

Tối về nhà, Hòa ngồi mãi mà đầu óc cứ vơ vơ vẩn vẩn, chẳng có cảm hứng để viết. Nó vẫn bị ám ảnh câu nói của Việt: “Văn chương, bóng bẩy rồi cũng dẫn đến bỏ nhau. Vậy thì văn chương bóng bẩy mà làm gì!”. Sáng hôm sau nó bảo Việt tự viết lấy. Đã nhận mình là thằng hồ đồ, thằng khốn nạn thì cần gì phải bóng bẩy văn hoa.

Nhớ đến việc hôm trước mình vừa khẳng định đây là lần cuối cùng nhờ Hòa viết thư, Việt cũng hơi ngại. Nó tặc lưỡi, thôi thì đành tự viết một lần vậy. Thư xin lỗi chứ đâu phải thư tán tỉnh mà cần văn hoa. Thế nhưng dù đã vạch ra một đống gạch đầu dòng rất rõ ràng, nó loay hoay cả chiều vẫn không viết nổi lá thư. Viết theo đúng tình cảm trong lòng thì nghe khô khan, cộc lốc, nhưng hễ cho thêm một tí văn chương vào, lập tức bao nhiêu sự chân thành, hối lỗi trôi tuột cả. Văn với chả vẻ! Hòa hoàn toàn “giả dối” khi viết thư, nhưng đọc lên nghe lại chân thành. Còn nó cố gắng viết hết sức chân thành thì đọc lên nghe lại như giả dối? Nó tự nhủ, lần sau phải điều tra thật cẩn thận rồi mới ghen. Còn bây giờ, đành muối mặt ép Hòa chuyển mấy cái gạch đầu dòng này thành loại văn vẫn viết. Chẳng gì thì trong mắt Mai Hương, nó vẫn đang là người có một tâm hồn lai láng văn chương.

Giang Cận

1

Giang không cận thị, nhưng vẫn bị gọi là Giang “Cận” vì trong khu, mấy thằng tên Giang đều cận thị hết. Một buổi tối, Giang Cận sang nhà Hòa. Nó bảo:

– Mày rảnh không, tao với mày đi nói chuyện?

Hòa chẳng hiểu có chuyện gì, nhưng nghe giọng Giang Cận có vẻ quan trọng, nó lẳng lặng mặc quần dài, ra khỏi nhà. Giang Cận là Bí thư Chi đoàn, học giỏi và có óc quan sát tuyệt vời, cái gì chỉ nhìn qua một lần là nhớ. Có lẽ do chức vụ, lại hay họp hành cùng cô giáo và lãnh đạo Đoàn trường nên nó ăn nói như ông cụ, trịnh trọng và sặc mùi lý thuyết. Câu cửa miệng của nó là “chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng” và ai cũng thấy nó nói bằng tất cả niềm tin. Nhưng tính nó rất sòng phẳng, chuyện nào đi chuyện ấy. Nó không tham gia vào các cuộc đánh nhau, không tán thành nhưng cũng không mách lẻo. Với nó, mọi người chẳng ai phải đề phòng. Nó vẫn tham dự mọi trò của bọn lớp 9D khu Nam Đồng, từ “bắn bùm”, “đổ dế” đến bàn luận tình yêu.

Hòa cùng Giang Cận lững thững đi bộ ra hồ Nam Đồng. Hồ này mới đào xong, chưa có tên, nhưng cạnh khu Nam Đồng nên gọi là hồ Nam Đồng, mãi về sau mới đổi thành hồ Xã Đàn. Hồi đang đào, từ trên nhìn xuống, lòng hồ sâu thăm thẳm. Bọn trẻ con quanh đấy hay xuống hồ chơi, chạy theo các máy ủi. Một đứa bị máy vùi, mấy ngày sau mới tìm thấy. Từ đấy, khi máy chạy, không đứa nào dám xuống hồ nghịch nữa.

Giang Cận kể với Hòa chuyện của nó với Ngọc Bích. Nó nói ngày xưa thì say mê, giờ chẳng hiểu sao tự nhiên lại không thích nữa và hỏi Hòa thấy có bạn nào hay, gợi ý cho nó: “Tao thích kiểu lẳng lơ và mỡ màng như cái Trung Phương”. Giang Cận hỏi Hòa thích ai? Từ ngày viết thư tình hộ Việt, Hòa mang tiếng là chuyên gia thư tình. Thằng nào cũng nhờ nó viết thư để giãi bày tình cảm. Mọi người đều nghĩ, nó viết thư hay thế, làm gì chẳng có người yêu. Đúng là có tiếng mà không có miếng. Ngày sơ tán, Hòa rất thích bạn Hạnh cùng trại, một tiểu thư Hà Nội gốc, khuôn mặt đài các, giọng nói nhẹ nhàng, có cái lúm đồng tiền rất duyên, khi ẩn khi hiện. Mỗi khi thấy Hạnh từ xa là tim nó đã đập loạn lên.

Tuy chỉ là một mối tình câm nhưng vô cùng mãnh liệt. Trở về Hà Nội, một hôm nó đến Phố Lý Nam Đế chơi với mấy người bạn cùng sơ tán, vô tình gặp Hạnh. Hạnh gật đầu, nhoẻn miệng cười. Nó tưởng chừng mình sẽ tan chảy ra vì hạnh phúc. Nhưng thật kỳ lạ, sau hôm đó, tình cảm của nó với Hạnh bỗng tan biến. Nó phát hiện ra đó chỉ là thứ tình yêu “bọ xít” của trẻ con. Nó chẳng biết lý giải ra sao. Bỗng dưng Hạnh hoàn toàn không còn là mẫu người nó thích. Bây giờ nó chuyển sang thích dạng con gái chân quê, đằm thắm, trắng hồng và đầy đặn như Yến của Hưng Sứt. Tiếc rằng Yến cắt tóc ngắn và hơi lùn, trong khi nó thích những người phụ nữ tóc dài. Các cụ dạy cái răng cái tóc là góc con người. Đàn ông nhiều người chỉ vì mê một cái lúm đồng tiền mà cưới nguyên cả người phụ nữ. Bộ tóc dài óng mượt còn giá trị gấp trăm cái lúm đồng tiền. Với nó, nếu Yến có mái tóc như tóc bạn Phương và chân thẳng, dài như chân bạn Diệp thì thật hoàn hảo. À, còn nữa, nó mơ người con gái mình yêu phải hát hay như Mai Hương. Còn nụ cười, công bằng mà nói, nó vẫn không thấy ai có nụ cười quyến rũ hơn Hạnh… Trong khi chưa tìm được người chân quê, đầy đặn như Yến, có tóc như Phương, chân như Diệp, cười như Hạnh, hát như Hương… nó quyết định việc yêu cứ để từ từ đã. Yêu chứ có phải ăn đâu mà không có món này xơi món khác. Thể nào rồi cũng có ngày số mệnh sẽ cho nó gặp người nó tìm.

Sau khi đi một vòng quanh hồ Nam Đồng, Hòa và Giang Cận ra bãi đất giữa khu Nam Đồng và khu Kim Liên tán chuyện. Giang Cận trao đổi với Hòa về chuyện học tập. Nó lo hai điều: Thứ nhất, học tập của lớp dạo này đi xuống, đặc biệt việc học của bọn con trai trong khu Nam Đồng. Cứ cái đà này, thể nào năm nay cũng có một số thằng đúp. Thứ hai, là chuyện vào Đoàn. Bọn khu Nam Đồng toàn con của các cán bộ trung, cao cấp trong quân đội, không được kết nạp vào Đoàn thì thật khó coi. Giang Cận đã nhận trước Ban chấp hành Chi đoàn bước đầu sẽ giúp Hòa và Khanh trở thành đoàn viên. Nó đề nghị Hòa cố gắng học tập, bớt nghịch ngợm và không tham gia đánh nhau. Không những thế, nó còn muốn Hòa và Khanh tác động lên những đứa khác.

Theo nó, bọn con trai nghịch ngợm một chút cũng chẳng sao, nhưng đánh nhau thì dứt khoát không được. Nó nói giản dị và chân thành, dù bằng cái giọng cán bộ “Bôn sệt” (xuất phát từ tiếng Nga, Bôn-sê-vích, hiểu nôm na là Cộng sản chính hiệu).

Hòa thấy Giang Cận nói cũng đúng. Nó đồng ý với Giang tất cả, trừ chuyện không đánh nhau. Anh em quân khu, dù không nói, nhưng đều tuân thủ nguyên tắc: “Tất cả vì một người, một người vì tất cả”. Dù anh em có sai đi nữa, nhưng nếu bị ai đánh, mình phải coi như chính mình bị đánh. Làm gì có chuyện anh em bị đánh mà đứng nhìn…? Hòa phân tích: “Bố bọn mình chiến đấu là để cho đất nước độc lập, thống nhất, cho nhân dân bình yên và hạnh phúc, chứ có phải để cho bọn trấn lột, du côn bắt nạt con cái ở hậu phương đâu. Mình trừng trị bọn xấu cũng là một việc nên làm”. Giang Cận cười, cho rằng đó là cái cớ để bao biện cho việc đánh nhau thôi. Bây giờ ở Hà Nội làm gì có hội nào dám trấn lột hay bắt nạt bọn Quân khu Nam Đồng? Hòa lại giải thích: “Khu Nam Đồng đánh nhau luôn xuất phát từ chính nghĩa, trừng trị kẻ xấu, bảo vệ người vô tội, trong một mức độ nào đó còn giúp xã hội trật tự hơn, giảm đi các băng nhóm và thanh thiếu niên hư hỏng”. Giang Cận phảy tay, bảo đấy là suy nghĩ bao biện, mơ hồ, không phải tư duy chân chính của một người thanh niên cộng sản.

Hòa phân vân, không biết nói thế nào để Giang Cận hiểu. Có dễ gì một chốc một lát quay ngoắt trăm tám mươi độ, biến thành thằng “Bôn sệt” trong khi bạn bè mình không như thế? Chỉ vì vào Đoàn mà mất hết anh em, bạn bè, Hòa thà không vào. Nó lý luận: “Chức năng của Đoàn là giúp thanh niên rèn luyện, phát triển. Đoàn là người đại diện, chăm lo cho quyền lợi của tuổi trẻ. Vì vậy, mình phải hòa hợp với quần chúng thanh niên, giúp đỡ mọi người cùng tiến bộ, chứ không phải tách ra khỏi tập thể để phấn đấu cho lợi ích riêng. Tóm lại, học hành tử tế, làm nhiều việc tốt và ngoan dần lên thì được, nhưng thỉnh thoảng vẫn phải tham gia đánh nhau để… hòa mình vào tập thể”. Hai thằng mải tranh luận mà không để ý đã vô tình lạc vào giữa vòng vây của đám đông mấy chục người.

2

Hồ Nam Đồng trước đây là một vùng đất lầy, xen lẫn những ruộng rau muống. Khi nhà nước tiến hành đào hồ để lấy đất tôn nền xây dựng khu Trung Tự và khu B của khu Nam Đồng, hồ này trở thành ranh giới ngăn cách giữa khu Nam Đồng với “giặc làng” – tên bọn khu Nam Đồng gọi những đứa trẻ con sống bên kia hồ. Hai bên thường xảy ra xung đột, phần nhiều là lấy đất đá ném nhau. Thường thì “giặc làng” thắng vì chúng đông hơn, ném cũng khỏe và xa hơn.

Tác giả: