Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Ánh mắt họ gặp nhau trong một khoảnh khắc im lặng nặng nề. Davett nhún vai và nhìn đi chỗ khác trước, nhưng sự rút lui ấy chẳng phải là sự nhượng bộ cho rằng Rhyme có lẽ đang hành động đúng. Mà nó hoàn toàn ngược lại: một sự phản đối dứt khoát, rằng với việc phớt lờ lời khuyên của ông ta, Rhyme và Bell đang là những kẻ liều mạng.

“Henry”, Bell nói. “Tôi đã đồng ý để ông Rhyme chỉ huy cách giải quyết vụ việc. Chúng tôi rất biết ơn ông ấy.”

Những lời của viên cảnh sát trưởng có phần nhằm tới chính bản thân Rhyme – một câu xin lỗi ngấm ngầm thay cho Davett.

Tuy nhiên, về phía Rhyme, anh thích thú đón nhận thái độ thẳng thừng của Davett. Đối với anh, đó là sự tự thừa nhận đáng sửng sốt, nhưng Rhyme, người vốn không tin tưởng chút nào vào các điềm báo, cảm thấy sự hiện diện lúc này đây của người đàn ông là điềm báo – rằng cuộc phẫu thuật sẽ tốt đẹp và cải thiện được tình trạng của anh. Anh cảm thấy như thế nhờ sự trao đổi chớp nhoáng vừa diễn ra – khi nhà doanh nhân cứng rắn này nhìn thẳng vào mắt anh và bảo anh hoàn toàn sai lầm. Davett thậm chí chẳng để ý đến tình trạng của Rhyme, tất cả những gì ông ta trông thấy là những hành động của anh, quyết định của anh, thái độ của anh. Đối với Davett, có thể tàn tật của anh chẳng liên quan gì. Đôi bàn tay kỳ diệu của Tiến sĩ Weaver sẽ đưa anh tiến thêm một bước, tới chỗ mà nhiều người nữa cũng sẽ cư xử với anh theo cách như vậy.

Nhà doanh nhân nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho hai cô gái”. Rồi quay sang Rhyme. “Tôi cũng sẽ cầu nguyện cho cả anh.” Cái nhìn kéo dài hơn một chút so với cái nhìn từ biệt thông thường, Rhyme cảm nhận rằng câu sau được nói ra chân thành – và theo đúng nghĩa đen của nó. Ông ta bước khỏi cửa.

“Henry là người hơi khó thay đổi quan điểm”, Bell nói khi Davett đã đi rồi.

“Và ông ta có mối quan tâm riêng trong vụ việc này, phải không?”, Rhyme hỏi.

“Cô gái bị ong bắp cày đốt chết năm ngoái. Meg Blanchard…”

Bị đốt một trăm ba mươi bảy phát. Rhyme gật đầu.

Bell tiếp tục. “Cô ấy làm việc ở công ty của Henry. Đi lễ ở cùng nhà thờ với ông ấy và gia đình ông ấy. Ông ấy cũng giống như hầu hết người dân vùng này – ông ấy nghĩ cuộc sống trong thị trấn sẽ tốt đẹp hơn nếu loại bỏ được Garrett Hanlon. Mỗi tội ông ấy lại có xu hướng cho rằng cách của ông ấy là cách hay nhất để giải quyết vụ việc.”

Nhà thờ… cầu nguyện… Rhyme bất chợt hiểu ra một điều. Anh nói với Bell: “Cây ghim cài cà vạt của Davett. Chữ cái J nghĩa là Jesus?”

Bell cười to. “Anh đúng đấy. Ồ, Henry vốn vẫn hạ gục các đối thủ cạnh tranh trong làm ăn chẳng chớp mắt, nhưng ông ấy lại là một trợ tế ở nhà thờ. Mỗi tuần ba lần gì đó. Một trong những lý do khiến ông ấy muốn cử cả đạo quân đi săn lùng Garrett là vì ông ấy nghĩ rằng thằng đó có vẻ là thứ ngoại đạo.”

Rhyme vẫn chưa xác định được ý nghĩa những chữ cái còn lại. “Tôi chịu. Ý nghĩa những chữ cái còn lại là như thế nào?”

“What Would Jesus Do?[22] Tất cả những tín đồ Cơ Đốc giáo chân chính trong vùng này đều tự hỏi mình câu ấy mỗi khi họ phải đối diện với một quyết định lớn. Bản thân tôi hoàn toàn không biết Chúa sẽ làm gì trong một vụ án như thế này. Nhưng tôi sẽ nói anh biết tôi sẽ làm gì: tôi sẽ gọi cho Lucy và cô bạn của anh, bảo họ hướng truy tìm dấu vết Garrett.”

* * *

“Lạch Đá à?”, Jesse Corn hỏi sau khi Sachs truyền đạt lại thông tin. Anh chàng cảnh sát chỉ tay. “Ở đằng kia, cách đây nửa dặm.”

Anh ta bắt đầu vượt qua khu vực cây bụi, theo sau là Lucy và Amelia. Ned Spoto khóa đuôi, cặp mắt màu nhạt của anh ta lo lắng quét khắp xung quanh.

Năm phút sau, họ thoát khỏi đám dây leo chằng chịt và bước lên một lối đi đã nhẵn dấu chân người. Jesse ra hiệu cho họ xuôi theo lối này, về phía tay phải – phía đông.

“Đây là cái lối mòn ấy à?” Sachs hỏi Lucy. “Cái lối mòn chị nghĩ là hắn đã đi?.”

“Phải”, Lucy trả lời.

“Chị đã đúng”, Sachs nói khẽ, chỉ đủ cho mình nghe. “Nhưng chúng ta vẫn phải đợi.”

“Không, đấy là cô phải chứng tỏ rằng ai nắm quyền chỉ huy”, Lucy nói sống sượng.

Điều ấy tuyệt đối đúng, Sachs tự nhủ thầm. Rồi thêm: “Nhưng bây giờ thì chúng ta biết có thể có bom trên đường truy tìm. Còn lúc trước chúng ta chưa biết.”

“Dù sao nếu cứ đi tôi cũng sẽ để ý xem có bẫy gì không”. Lucy không nói nữa và cô tiếp tục bước theo lối mòn, mắt cắm xuống đất, thể hiện rằng, thực tế, cô vẫn quan sát đề phòng.

Mười phút sau, họ tới lạch Đá, nước của nó trắng như sữa và sủi bọt vì các chất gây ô nhiễm. Trên bờ lạch, họ phát hiện ra hai loại dấu chân – dấu giày vải kích thước nhỏ nhưng hằn sâu, có lẽ của một cô gái vóc người to béo. Không nghi ngờ gì nữa, đấy chính là Lydia. Và dấu chân trần của nam giới. Garrett rõ ràng đã vứt nốt chiếc giày còn lại.

“Hãy sang bên kia con lạch ở chỗ này”, Jesse nói. “Tôi biết cánh rừng thông mà ông Rhyme đề cập tới. Đây là đường ngắn nhất để đến đấy.”

Sachs chuẩn bị bước xuống nước.

“Dừng lại!”, Jessy đột ngột gọi to.

Sachs đứng sững lại, đặt tay lên khẩu súng lục, khom mình. “Có chuyện gì thế?”, cô hỏi. Lucy và Ned, rúc rích cười trước phản ứng của cô, đang ngồi trên những tảng đá, cởi tất và giày.

“Cô để ướt tất và tiếp tục đi bộ”, Lucy nói. “Cô sẽ có cả chục vết thương phải băng bó trước khi đi được một trăm thước. Chân cô sẽ bị phồng rộp.”

“Cô không có nhiều kinh nghiệm đi bộ, phải không?” Ned hỏi người nữ cảnh sát.

Jesse Corn dành cho anh chàng đồng nghiệp nụ cười bực bội. “Vì cô ấy sống ở thành phố, Ned. Cũng hoàn toàn giống như tôi chẳng nghĩ cậu là một chuyên gia về tàu điện ngầm và các tòa nhà chọc trời.”

Sachs phớt lờ cả câu phê phán lẫn lời bảo vệ đầy sự ga lăng, cởi đôi bốt thấp cổ, cởi đôi tất đen chỉ cao đến mắt cá chân. Xắn gấu quần bò lên.

Họ bắt đầu đi qua con lạch. Nước lạnh như nước đá, cảm giác hết sức dễ chịu. Sachs thấy nuối tiếc khi chuyến vượt lạch – mà Jesse phát âm thành “lặt” – kết thúc.

Sang bờ bên kia, họ đợi vài phút cho chân khô, rồi đi tất, đi giày vào. Tiếp theo, họ kiểm tra xung quanh bờ cho tới lúc lại phát hiện được các dấu chân. Đội tìm kiếm liền đi theo các dấu chân đó vào rừng nhưng vì mặt đất trở nên khô ráo hơn và những bụi cây đan nhau chằng chịt hơn, họ đã mất dấu vết.

“Đám thông ở đằng kia”, Jesse nói. Anh ta chỉ về phía đông bắc, “Đi xuyên thẳng qua đấy là cách hợp lý nhất đối với họ.”

Theo sự hướng dẫn chung chung của Jesse, họ đi bộ thêm hai mươi phút nữa, đi hàng một, quan sát kỹ lưỡng mặt đất để đề phòng dây bẫy. Rồi sồi, nhựa ruồi, lách… dần dần nhường chỗ cho bách xù và độc cần. Phía trước họ, cách một phần tư dặm, là một rặng thông khổng lồ. Nhưng chẳng còn bất cứ dấu chân nào của kẻ bắt cóc và nạn nhân của gã nữa – không có manh mối nào về vị trí họ đã đi vào rừng.

“Rộng mênh mông như thế này”, Lucy lẩm bẩm. “Làm sao chúng ta tìm thấy dấu vết của họ trong đấy?”

“Chúng ta hãy tỏa ra”, Ned gợi ý. Anh ta có vẻ cũng bị mất tinh thần vì khoảng cây cối rậm rạp trước mặt. “Nếu hắn đặt một quả bom thì họa có trời mới thấy được.”

Họ đang sắp sửa tỏa ra thì Sachs nghênh nghênh đầu. “Khoan. Ở yên đấy đã”, cô ra lệnh rồi bắt đầu từ từ đi qua bụi cây, mắt nhìn xuống đất, xem có bẫy không. Chỉ đi chừng năm mươi feet, tới một lùm cây cái cây trổ hoa, bây giờ hoa đã rụng, xung quanh gốc đầy các cánh rữa nát, cô phát hiện ra dấu chân của Garrett và Lydia trên nền đất. Chúng dẫn tới một lối mòn quang quẻ và lối mòn này dẫn vào rừng.

“Họ đi lối này!”, Sachs gọi. “Đi theo dấu chân tôi ấy. Tôi đã soát bẫy rồi.”

Một lát sau, ba người cảnh sát tới chỗ cô.

“Làm sao cô phát hiện được?”, anh chàng Jesse Corn đang trồng cây si hỏi.

“Anh ngửi thấy mùi gì?” Sachs hỏi lại.

“Xạ chồn”, Ned trả lời.

Sachs nói: “Garrett để lại mùi xạ chồn trên chiếc quần tôi tìm thấy tại nhà hắn. Tôi suy luận rằng lúc trước hắn đã đi theo lối này. Tôi căn cứ vào mùi xạ chồn còn vương ở đây thôi.”

Jesse cười to và bảo Ned: “Một cô gái thành phố đấy, anh thấy thế nào?”

Ned đảo mắt và họ bắt đầu đi theo lối mòn, từ từ di chuyển về phía rặng thông.

Có vài lần họ đi qua những khu vực rộng lớn, héo úa – cây to, cây nhỏ chết hết cả. Khi đi qua những khu vực đó, Sachs cảm thấy bất an – đội tìm kiếm hoàn toàn phơi mình ra trước khả năng bị tấn công. Qua nửa bãi trống thứ hai và sau một cú thót tim nữa vì con thú hay con chim nào đấy rúc sột soạt trong bụi cây, cô rút điện thoại di động ra.

“Rhyme, anh ở đấy chứ?”

“Gì thế? Tìm thấy cái gì à?”

“Bọn em phát hiện được dấu vết rồi. Nhưng hãy cho em biết – có chứng cứ nào chỉ ra khả năng Garrett sử dụng súng không?”

“Không”, Rhyme trả lời, “Sao vậy?”

“Có những khu vực trống trong cánh rừng này – mưa acid hoặc các chất gây ô nhiễm đã tiêu diệt sạch cây cối. Bọn em chẳng có gì che chắn. Thật là một nơi lý tưởng để mai phục.”

“Anh không thấy dấu vết nào hướng tới việc sử dụng súng. Bọn anh có phát hiện ra nitrate, nhưng nếu đấy là từ đạn thì bọn anh cũng sẽ phải phát hiện ra các hạt nhỏ đã cháy, dung môi làm sạch, dầu mỡ, cordite, thủy ngân fulminate. Không thấy bất cứ thứ gì như vậy.”

“Điều ấy chỉ có nghĩa là hắn không sử dụng súng trong thời gian gần đây.”

“Phải.”

Sachs cúp máy.

Quan sát sung quanh một cách thận trọng, đầu óc căng thẳng, họ đi thêm vài dặm nữa, xung quanh không khí đầy mùi nhựa thông. Như bị ru ngủ bởi cái nóng và tiếng côn trùng vo ve, họ vẫn đi trên lối mòn mà Garrett và Lydia đi lúc trước, tuy dấu chân hai người chẳng còn rõ ràng nữa. Sachs băn khoăn tự hỏi liệu có phải họ đã bỏ qua…

Tác giả: