Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Sachs trèo vào theo, ngồi quay lưng về phía mũi thuyền, đối diện Garrett. Gã nhoẻn nụ cười hiểu biết, y như thể nhận ra là cô chưa đủ tin tưởng để ngồi quay lưng lại với gã. Gã giật sợi dây khởi động máy. Máy thuyền khục khặc chạy. Gả đẩy con thuyền rời khỏi bờ và, giống như những cậu Huck Finn[35] hiện đại, họ bắt đầu xuôi theo sông.

Sachs ngẫm nghĩ: Đây là cuộc đấu tay đôi.

Một câu mà cha cô trước đây hay dùng. Người đàn ông gọn ghẽ, tóc bắt đầu thưa, phần lớn đời mình làm một cảnh sát tuần tra khu vực ở Brooklyn và Mahattan, từng có buổi trò chuyện nghiêm túc với cô con gái khi cô bảo ông là cô muốn bỏ nghề người mẫu để tham gia vào lực lượng cảnh sát. Ông hết sức ủng hộ quyết định đó nhưng đã nói về nghề cảnh sát như thế này: “Amie, con phải hiểu rằng: đôi khi con cần xông lên, đôi khi con cần tạo ra ảnh hưởng, đôi khi con sẽ có cảm giác tẻ nhạt. Và đôi khi, không quá thường xuyên đâu, ơn Chúa, nó là cuộc đấu tay đôi. Nắm đấm đọ nắm đấm. Con hoàn toàn đơn độc, chẳng có ai giúp đỡ con. Và ý cha là không chỉ chiến đấu với các đối tượng. Đôi khi con sẽ phải chiến đấu với các sếp của con. Đôi khi lại với sếp của họ. Con có thể chiến đấu với cả bạn bè nữa. Con định trở thành một cảnh sát, con hãy sẵn sàng đơn thương độc mã. Không được né tránh.”

“Con có thể đương đầu mà cha”.

“Đúng là con gái tôi. Cha con mình lái xe đi đâu nhé, con gái.”

Ngồi trên thuyền ọp ẹp này, được điều khiển bởi một thằng bé mới lớn nguy hiểm, Sachs chưa bao giờ cảm thấy cô đơn đến thế trong cuộc đời.

Cuộc đấu tay đôi… nắm đấm đọ nắm đấm.

“Nhìn đằng kia”, Garrett nói nhanh. Gã chỉ một con côn trùng gì đó. “Nó là loài tôi ưa thích nhất đấy. Bọ gạo. Nó bay trong nước.” Khuôn mặt gã sáng lên ánh nhiệt tình không kiềm chế được. “Nó thực sự bay trong nước! Này, khá thú vị, phải không? Bay trong nước ấy. Tôi thích nước. Nước làm da tôi thấy dễ chịu.” Nụ cười tắt dần và gã chà xát cánh tay. “Cái giống sồi độc chết tiệt này… Tôi lúc nào cũng bị nó quệt vào. Đôi lúc ngứa kinh khủng.”

Họ bắt đầu luồn lách qua các vịnh nhỏ, vòng xung quanh các hòn đảo, các chùm rễ cây, các thân cây xám xịt ngập phân nửa, rồi luôn luôn quay lại với hành trình về phía tây, về phía mặt trời đang lặn.

Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc Sachs, tiếng vọng của một ý nghĩ đã xuất hiện trong cô từ lúc trước, trong phòng giam gã trai ngay trước khi cô giải cứu gã: với việc giấu một chiếc thuyền chất đầy thực phẩm dự trữ, nạp nhiên liệu sẵn sàng, Garrett đã dự tính rằng bằng cách này hay cách khác gã sẽ vượt ngục. Và vai trò của cô trong chuyến đi này là một phần của kế hoạch tinh vi đã dự tính đó.

“Dù em nghĩ về Garrett như thế nào, cũng đừng tin tưởng hắn. Em nghĩ hắn vô tội. Nhưng cũng hãy chấp nhận là hắn có thể có tội. Em biết chúng ta vẫn tiếp cận các hiện trường vụ án như thế nào, Sachs.”

“Với một tư duy mở. Không định kiến. Tin tưởng rằng mọi cái đều có thể.”

Nhưng rồi Sachs lại nhìn gã trai. Cặp mắt gã sáng rỡ, hạnh phút lướt qua hết cảnh vật này tới cảnh vật khác trong lúc điều khiển thuyền đi xuyên các con kênh, trông không giống chút nào một kẻ phạm tội vượt ngục mà y như thể một thiếu niên phấn chấn tham gia chuyến cắm trại, sung sướng và hào hứng trước những gì mình sẽ có thể khám phá sau mỗi khúc quanh của sông.

* * *

“Chị ta giỏi đấy, Lincoln”, Ben nói, ám chỉ mánh khoé sử dụng chiếc điện thoại di động.

Cô ấy đúng là giỏi, lincoln nghĩ thầm. Rồi anh tự nói thêm với bản thân mình: cô ấy giỏi chẳng kém tôi. Tuy nhiên anh phải nghiêm khắc thừa nhận – cũng riêng với bản thân mình thôi – rằng lần này thì cô đã giỏi hơn anh.

Rhyme điên tiết với chính mình vì đã không dự tính trước điều ấy. Đây đâu phải một cuộc chơi, anh tự nhủ, đâu phải một bài tập – như cái cách anh đôi lúc vẫn thử thách Sachs khi cô đang tiến hành khám nghiệm hiện trường hay khi họ đang phân tích các chứng cứ trong la-bô của anh ở New York. Tính mạng cô đang gặp nguy hiểm. Thời gian trước khi Garrett cưỡng hiếp hoặc sát hại cô chỉ còn tính bằng tiếng đồng hồ. Anh không thể lại phạm sai lầm lần nữa.

Một cảnh sát xuất hiện trên ngưỡng cửa, xách chiếc túi giấy đựng hàng của chuỗi cửa hiệu Food Lion. Nó đựng quần áo của Garrett để ở khu tạm giam.

“Tốt”, Rhyme nói. “Lập bảng đi, một người nào đấy. Thom, Ben… lập bảng đi. “Tìm thấy tại hiện trường gián tiếp – cối xay.” Ben viết đi, viết đi!”

“Nhưng chúng ta lập rồi mà.” Ben chỉ tấm bảng.

“Không, không, không”, Rhyme quát. “Xoá hết đi. Các chứng cứ đó là giả. Garrett đã bố trí để đánh lạc hướng chúng ta. Giống hệt chỗ đá vôi trong chiếc giày hắn bỏ lại khi bắt cóc Lydia. Nếu chúng ta có thể tìm thấy chứng cứ trong quần áo của hắn – anh hất đầu chỉ cái túi – chúng ta sẽ biết Mary Beth thực sự đang ở đâu”.

“Nếu chúng ta may mắn”, Bell nói.

Không phải may mắn, Rhyme nghĩ thầm, mà là nếu chúng ta giỏi. Anh bảo Ben: “Cắt một đoạn của chiếc quần – đoạn gần gấu – và chạy qua máy tách hợp chất”.

Bell bước ra khỏi văn phòng, để nói với Steve Farr về việc xin tần số ưu tiên cho các máy bộ đàm mà không phải tiết lộ với cảnh sát bang những gì đang diễn ra, Rhyme đã khăng khăng đề nghị điều này.

Bây giờ thì nhà hình sự học và Ben cùng chờ đợi kết quả từ máy tách hợp chất. Trong lúc chờ đợi, Rhyme hỏi: “Chúng ta có gì nữa?”. Anh hất đầu chỉ đống quần áo.

“Các vết sơn màu nâu dây trên quần của Garrett.” Ben vừa xem xét vừa báo cáo. “Màu nâu sẫm. Trông còn mới.”

“Màu mâu”, Rhyme nhắc lại và kiểm tra chúng. “Nhà của cha mẹ Garrett sơn màu gì?”

“Tôi không biết”, Ben đáp.

“Tôi đâu có nghĩ cậu là cái kho chứa thông tin vớ vẩn của Tanner’s Corner”, Rhyme lẩm bẩm. “Tôi muốn nói: Hãy gọi điện hỏi họ.”

“Ồ”. Ben tìm thấy số máy trong hồ sơ vụ án. Anh ta nói chuyện với người nào đó một lát. “Đấy là cái đồ con hoang chẳng muốn hợp tác gì hết… Cha nuôi của Garrett. Dù sao thì nhà họ cũng sơn màu trắng và không có chi tiết nào sơn màu nâu sẫm.”

“Vậy, có thể nơi đang giam giữ cô gái sơn màu này.”

Anh chàng to béo hỏi: “Liệu có cơ sở dữ liệu nào về sơn mà chúng ta có thể đối chiếu không?”.

“Ý kiến hay đấy”, Rhyme đáp. “Nhưng câu trả lời là không. Ở New York thì tôi có, tuy nhiên nó chẳng giúp gì cho chúng ta ở đây. Còn cơ sở dữ liệu của FBI lại về xe hơi. Nhưng hãy cứ tiếp tục. Có gì trong túi quần, có gì không? Đi…”

Nhưng Ben đã đang đi găng tay cao su vào rồi. “Ông định bảo việc này phải không?”

“Phải”, Rhyme lẩm bẩm.

Thom nói: “Anh ấy vốn vẫn ghét bị đoán trước ý”.

“Thế thì tôi sẽ cố gắng đoán trước ý thường xuyên hơn”, Ben nói. “A, có cái gì này.”

“Cái gì?”

Ben hít hít. “Phó mát và bánh mì.”

“Lại thức ăn. Giống như chỗ bích quy và…”

Ben cười to.

Rhyme cau mày. “Cái gì mà buồn cười?”

“Đó là thức ăn – nhưng không phải cho Garrett.”

“Ý cậu là thế nào?”

“Chưa, tôi chưa đi câu bao giờ”, Rhyme lẩm bẩm. “Nếu muốn có cá, người ta mua, người ta nấu, người ta ăn. Câu cá thì có liên quan quái gì đến bánh sandwich nhân phó mát hả?”

Đây không phải từ bánh sandwich”, Ben giải thích. “Đây là những viên chua. Mồi để đi câu. Người ta trộn bánh mì và phó mát rồi cho chúng lên men. Bọn cá ăn sát đáy rất mê món này. Bọn cá da trơn chẳng hạn. Mùi càng chua càng tốt.”

Rhyme nhướn lông mày. “À, bây giờ thì chi tiết ấy hữu ích đấy.”

Ben kiểm tra phần gấu lơ-vê. Anh ta phủi một chút gì đó xuống tờ phiếu đặt mua dài hạn tạp chí People, rồi soi dưới kính hiển vi. “Không có gì đặc biệt lắm”, anh ta nói. “Ngoại trừ những đốm nhỏ. Màu trắng.”

“Để tôi xem.”

Nhà động vật học bê chiếc kính hiển vi lớn hiệu Bausch & Lomb đến cho Rhyme. Anh nhìn vào các thị kính. “Được rồi, tốt. Chúng là các sợi giấy.”

“Thế à?”, Ben hỏi.

“Đấy hiển nhiên là giấy. Còn có thể là gì nữa chứ? Cũng là loại hút nước. Tuy nhiên, chẳng có manh mối nào cho thấy nguồn gốc. Bây giờ thì chỗ đất cát đó rất đáng quan tâm. Cậu lấy thêm một ít được không? Từ phần gấu lơ-vê ấy?”

“Tơi sẽ cố gắng.”

Ben cắt đường khâu và mở gấu ra. Anh ta phủi thêm được một ít đất cát xuống tờ phiếu.

“Soi đi”, Rhyme yêu cầu.

Nhà hình sự học chuẩn bị một phiến kính và đặt nó lên bệ chiếc kính hiển vi kép mà anh ta lại bê rất chắc hắn cho Rhyme nhìn. “Có nhiều đất sét. Tôi muốn nói là nhiều. Đá feldspathic, có lẽ là granite. Và… cái gì thế kia? Ồ, rêu nước.”

Ben cảm thấy rất ấn tượng. “Làm sao ông biết được tất cả những cái này?”

“Đơn giản là tôi biết.” Rhyme không có thời gian để đi vào bàn luận việc một nhà hình sự học phải thông thạo về thế giới vật chất như anh thông thạo ra sao. Anh hỏi: “Trong gấu quần còn gì nữa? Cái gì kia?”. Anh hất đầu chỉ cái gì đó nằm trên tờ phiếu đặt mua tạp chí. “Cái gì bé tí màu xanh trăng trắng đấy?”

“Nó từ một loài thực vật”, Ben nói. “Nhưng không phải chuyên môn của tôi. Tôi đã học về thực vật dưới nước, nhưng tôi chẳng yêu thích môn này. Tôi yêu thích những dạng sống có cơ hội chuồn đi khi người ta định sưu tầm chúng. Như thể xem chừng thượng võ hơn.”

Rhyme ra lệnh: “Mô tả đi”.

Ben quan sát kỹ lưỡng bằng chiếc kính lúp. “Một cái cuống hơi đỏ có một giọt chất lỏng ở đầu dưới. Trông nhơn nhớt. Đầu trên có một bông hoa trắng hình chuông… Nếu tôi phải phỏng đoán thì…”

“Cậu phải làm việc đó”, Rhyme quát. “Và khẩn trương lên.”

“Tôi khá chắc chắn rằng nó là một nhánh gọng vó.”

“Là cái quái quỷ gì vậy? Nghe cứ như đi bắt tôm bắt cá ấy.”

Tác giả: