Cái ghế trống – Jeffery Deaver

“Tôi không nhớ, nhưng có thể thế, Bell thừa nhận. Anh ta nhìn Rhyme với nụ cười ngưỡng mộ. “Làm sao mà anh phát hiện ra được chuyện này?”

“Ồ, dễ dàng thôi – vì không bao giờ có sương giá vào tháng Bảy cả. Dù sao thì cũng không có ở Bắc Carolina.”

“Sương giá ấy à?”

“Tôi đã nói chuyện với Amelia. Garrett kể cho cô ấy nghe là vào buổi tối gia đình hắn thiệt mạng, chiếc ô tô bị bám sương giá, còn cha mẹ và em gái hắn thì run cầm cập. Nhưng vụ tai nạn xảy ra vào tháng Bảy. Tôi nhớ đã trông thấy bài báo trong tập hồ sơ – bức ảnh chụp Garrett và gia đình. Hắn mặc áo phông và bức ảnh chụp họ tại một bữa tiệc kỷ niệm ngày mùng Bốn tháng Bảy. Theo bài báo, bức ảnh được chụp trước khi tai nạn xảy ra một tuần.”

“Thế thằng nhãi nói tới cái gì? Sương giá, run cầm cập à?”

“Mason và Culbeau đã sử dụng một ít toxaphene của Davett để sát hại cái gia đình kia. Tôi đã trao đổi với bác sĩ của tôi tại trung tâm y khoa. Chị ấy nói rằng trong những trương hợp bị đầu độc thần kinh cực điểm, hay xuất hiện tình trạng co cơ. Đó là hiện tượng run cầm cập mà Garrett đã trông thấy. Sương giá thì có thể là hơi hoặc cặn hóa chất còn trong xe.”

“Nếu hắn trông thấy tại sao hắn chẳng kể cho ai nghe?”

“Tôi mô tả thằng nhãi với bác sĩ. Và chị ấy nói rằng có vẻ như buổi tối hôm đó hắn cũng bị đầu độc. Chỉ đủ khiến hắn rơi vào tình trạng nhạy cảm đa hóa chất. Mất trí nhớ, tổn thương não, phản ứng dữ dội trước các loại hóa chất khác trong không khí, trong nước. Anh nhớ những lằn đỏ trên da hắn chứ?”

“Tất nhiên.”

“Garrett nghĩ đó là vì lá sồi độc, nhưng không phải vậy. Bác sĩ bảo tôi rằng da nổi ban là một triệu chứng kinh điển của tình trạng nhạy cảm đa hóa chất. Nó khởi phát khi người ta tiếp xúc với những lượng hết sức nhỏ các hóa chất mà bình thường chẳng gây tác hại gì đến ai. Thậm chí xà phòng hay nước hoa cũng làm da nổi ban.”

“Nghe hợp lý đấy”, Bell nói. Rồi, chau mày, anh ta nói thêm: “Nhưng nếu anh không có bằng chứng cụ thể thì tất cả những gì chúng ta đang có chỉ là sự phỏng đoán”.

“Ồ, tôi nên đề cập tới mới phải.” Rhyme chẳng kiềm chế nổi một nụ cười yếu ớt, sự khiêm tốn chưa bao giờ là một phẩm chất mà anh giỏi thể hiện ra bên ngoài. “Tôi có vài bằng chứng cụ thể. Tôi đã phát hiện được xác cha mẹ và em gái Garrett.”

CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT

Tại khách sạn Albemarle Manor, cách khu tạm giam của quận Paquenoke một khối phố, Mason Germain không chờ đợi thang máy mà leo luôn thang bộ, các bậc thang trải thảm màu nâu vàng xơ xác.

Anh ta tìm thấy phòng 201 và gõ cửa.

“Vào đi.” Giọng nói cất lên.

Mason từ từ đẩy mở cánh cửa, hé lộ một căn phòng quét sơn màu hồng đang tắm trong ánh nắng buổi chiều vàng rực rỡ. Bên trong nóng ngột ngạt. Anh ta không thể tưởng tượng được chủ sở hữu hiện tại của căn phòng lại thích tình trạng như thế này, nên anh ta đồ rằng gã – cái tay đang ngồi bên bàn kia – hoặc là quá lười biếng đến nỗi không buồn bật máy điều hòa nhiệt độ hoặc là quá ngu ngốc đến nỗi không biết bật nó ra sao. Điều ấy khiến Mason càng tăng thêm nỗi ngờ vực.

Gã đàn ông gốc Phi, thân hình rắn chắc và nước da đặc biệt thẫm màu, mặc một bộ com lê đen nhàu nhĩ. Tại sao gã lại không tự gây sự chú ý chứ. Mason khinh khỉnh nghĩ bụng. Gã Malcom X chết tiệt[38].

“Anh là Germain?”, gã đàn ông hỏi.

“Phải rồi.”

Đôi chân gã đàn ông gác trên chiếc ghế dựa kê trước mật và khi gã rút bàn tay từ dưới tờ nhật báo Người quan sát Charlotte ra, những ngón tay dài của gã đang nắm khẩu súng lục tự động nòng dài.

“Hành động ấy trả lời một trong số các câu hỏi của tôi”, Mason nói. “Rằng liệu anh có súng không.”

“Câu hỏi thứ hai là gì?”, gã đàn ông mặc com lê hỏi.

“Rằng liệu anh có biết sử dụng nó không.”

Gã đàn ông chẳng nói chẳng rằng, cẩn thận đánh dấu đoạn đề cập tới mình trong một bài báo bằng mẩu bút chì ngắn ngủn. Trông gã y như đứa học trò lớp ba đánh vật với bảng chữ cái.

Mason lại im lặng quan sát gã đàn ông, rồi cảm thấy dòng mồ hôi đáng ghét chảy dọc xuống mặt. Không buồn xin phép, Mason bước vào buồng tắm, giật lấy chiếc khăn lau mặt, xong vứt nó xuống nền.

Gã đàn ông cất tiếng cười, cũng đáng ghét y như dòng mồ hôi lúc nãy, và nói: “Tôi đang có ấn tượng rất rõ ràng rằng anh không ưa cái kiểu của tôi lắm”.

“Đúng, tôi nghĩ là tôi không ưa”, Mason trả lời. “Nhưng nếu anh biết việc anh sẽ làm thì tôi ưa hay không ưa cái gì không quan trọng.”

“Điều đó hoàn toàn đúng”, gã da đen lạnh nhạt đáp. “Vậy, hãy nói tôi nghe. Tôi không muốn ở đây lâu hơn mức cần thiết.”

“Cách hành động đây. Ngay bây giờ Rhyme đang nói chuyện với Jim Bell tại trụ sở chính quyền quận. Còn Amelia Sachs, cô ta ở trong khu tạm giam phía trên con phố này.”

“Chúng ta nên đến đâu trước nhỉ?”

Không chần chừ, Mason nói: “Amelia”.

“Vậy chúng ta sẽ làm như thế.” Gã đàn ông nói y như thể đó là ý tưởng của gã. Gã cất khẩu súng đi, đặt tờ nhật báo lên chiếc tủ gương trang điểm, rồi, với sự lịch thiệp mà Mason chắc chắn rằng không có gì khôi hài hơn, nói: “Mời ông ra trước”. Và gã chỉ tay về phía cánh cửa.

* * *

“Xác gia đình nhà Hanlon à?”, Jim Bell hỏi Rhyme. “Ở đâu?”

“Đằng kia”, Rhyme nói, hất đầu chỉ một đống xương lúc trước ở trong ba lô của Mary Beth. “Chúng là những gì Mary Beth tìm thấy tại Bến tàu kênh Nước đen. Cô ta tưởng chúng là xương những người sống sót của Thuộc Địa Biến Mất. Nhưng tôi phải tiết lộ cho cô ta biết rằng chúng không lâu đời đến mức ấy. Chúng trông có vẻ mục nát, tuy nhiên đó đơn giản vì chúng đã bị thiêu cháy một phần. Tôi từng làm công việc khám nghiệm khảo cổ nhiều lần và tôi nhận ra ngay là chúng mới nằm dưới đất chừng năm năm thôi – đúng khoảng thời gian kể từ khi gia đình nhà Hanlon thiệt mạng. Chúng là xương một người đàn ông gần bốn mươi tuổi, một người phụ nữ cũng trạc tuổi ấy đã từng sinh con và một đứa bé gái chừng mười tuổi. Đây chính xác là sự mô tả về gia đình của Garrett.”

Bell nhìn đống xương. “Tôi không hiểu.”

“Đất của gia đình nhà Garrett ở ngay bên kia đường 112, đoạn chạy qua Bến tàu kênh Nước đen, phía bờ sông. Mason và Culbeau đầu độc gia đình đó rồi thiêu cháy xác họ và đem chôn, còn xe thì đẩy xuống nước. Davett đã hối lộ để nhân viên điều tra làm báo cáo láo và trả tiền cho một người nào đấy ở nhà tang lễ để người này giả vờ là có hỏa táng mấy cái xác. Tôi đảm bảo rằng phía dưới mấy ngôi mộ không có gì. Mary Beth hẳn đã nói chuyện tìm thấy chỗ xương với ai đó và chuyện lọt tới tai Mason. Hắn thuê Billy Stail đến Bến tàu kênh Nước đen thủ tiêu cô gái và đánh cắp các chứng cứ – tức chỗ xương.”

Cái gì? Billy ư?”

“Chỉ có điều Garrett lại tình cờ ở đó, canh chừng cho Mary Beth. Anh biết đấy, cậu ta đã nhận định đúng: Bến tàu kênh Nước đen là một chốn nguy hiểm. Người ta quả đã chết ở đó – những vụ khác xảy ra trong vòng vài năm qua. Chỉ có điều không phải Garrett giết họ. Mà là Mason và Culbeau. Họ bị sát hại vì đã mắc bệnh do nhiễm toxaphene và bắt đầu nghi ngờ nguyên nhân tại sao. Tất cả mọi người ở thị trấn đều biết Thằng Bọ, bởi vậy Mason hoặc Culbeau đã giết một cô gái – Meg Blanchard – bằng tổ ong bắp cày, nhằm tạo cái vẻ như cậu ta đã làm việc ấy. Mấy người kia thì bị bọn chúng đập đầu rồi ném xuống kênh cho chết đuối. Những ai không thắc mắc gì chuyện bệnh tật – cha Mary Beth và Lucy Kerr chẳng hạn – thì bọn chúng không bận tâm.”

“Nhưng Garrett đã để lại dấu vân tay trên chiếc xẻng… vũ khí giết người.”

“À, chiếc xẻng”, Rhyme trầm ngâm. “Có điều này rất thú vị liên quan đến chiếc xẻng. Tôi đã lại phạm phải sai lầm… Chỉ có hai bộ dấu vân tay in trên đó thôi.”

“Đúng, của Billy và của Garrett.”

“Thế dấu vân tay của Mary Beth đâu?”, Rhyme hỏi.

Cặp mắt Bell nheo lại. Anh ta gật đầu, “Đúng. Không có dấu vân tay nào của cô ấy.”

“Vì nó không phải xẻng của cô ta. Mason đưa nó cho Billy mang đến Bến tàu kênh Nước đen – sau khi lau sạch dấu vân tay của chính mình, tất nhiên. Tôi có hỏi Mary Beth về việc này. Cô ta nói Billy đã từ bụi rậm bước ra, vác theo chiếc xẻng. Mason tính toán rằng nó sẽ là thứ vũ khí giết người hoàn hảo – vì làm công việc khảo cổ, Mary Beth chắc phải có xẻng. Chà, Billy đến Bến tàu kênh Nước đen và trông thấy Garrett ở đó. Hắn định khử cả Thằng Bọ. Nhưng Garrett giật được chiếc xẻng và đập Billy. Cậu ta tưởng mình đã giết chết hắn, nhưng không phải.”

“Không phải Garrett giết chết Billy à?”

“Không, không, không… Cậu ta chỉ đập Billy một hoặc hai phát, làm hắn ngã gục tuy nhiên không làm hắn bị thương nặng. Rồi Garrett đưa Mary Beth tới ngôi nhà gỗ vốn của dân cất rượu lậu. Mason là người đầu tiên có mặt tại hiện trường. Hắn công nhận điều ấy.”

“Đúng. Hắn đã nhận điện thoại thông báo.”

“Cũng khá ngẫu nhiên là hắn lại đang ở gần đấy, anh có nghĩ như vậy không?”

“Ừ. Lúc ấy tôi không nghĩ gì về việc này.”

“Mason tìm thấy Billy. Hắn cầm chiếc xẻng lên – có đi găng tay cao su thu thập chứng cứ – đánh thằng bé đến chết.”

“Làm sao anh biết được?”

“Nhờ vị trí các dấu găng tay cao su. Một tiếng đồng hồ trước, tôi đã yêu cầu Ben xem xét lại cán chiếc xẻng bằng thiết bị hiệu chỉnh ánh sáng. Mason cầm chiếc xẻng giống như cầm cây gậy đánh bóng chày. Đây không phải cái cách mà người ta cầm lên một chứng cứ ở hiện trường vụ án. Và hắn điều chỉnh tay nắm nhiều lần để lực giáng xuống mạnh hơn. Khi Sachs có mặt tại hiện trường, cô ấy nói vết máu cho thấy Billy bị đập vào đầu trước tiên và gục ngã bất tỉnh. Tuy nhiên, hắn vẫn còn sống. Cho tới khi bị Mason dùng chiếc xẻng đập vào cổ.”

Tác giả: