Cái ghế trống – Jeffery Deaver

“Không sao đâu mà”, Ben trấn an Frank. “Chúng tôi chỉ cần biết nơi anh sống. Trên tấm bản đồ kia kìa.”

“Đây… Frank bước tới trước bức tường và đặt tay vào một điểm. Ô D-3. Nó ở phía bắc sông Paquenoke – phía bắc ngôi nhà lưu động nơi Jesse đã bị bắn chết. Có một số con đường nhỏ trong khu vực này, tuy nhiên không có thị trấn nào được đánh dấu.

“Xung quanh nơi anh sống ra sao?”

“Chủ yếu là rừng và các cánh đồng cỏ.”

“Anh có biết chỗ nào mà người ta có thể giấu một nạn nhân bị bắt cóc không?”

Frank xem chừng nghiêm chừng nghiêm túc cân nhắc câu trả lời. “Không, tôi không biết.”

Rhyme nói: “Tôi hỏi anh một câu được không?”

“Cộng thêm vào những câu ông đã hỏi?”

“Đúng vậy.”

“Tôi nghĩ là được.”

“Anh biết về những cái vũng Carolina chứ?”

“Tất nhiên. Mọi người đều biết mà. Các tảng thiên thạch rơi xuống đã tạo ra chúng. Từ lâu rồi. Từ khi lũ khủng long bị tuyệt diệt.”

“Có cái vũng nào ở gần nơi anh sống không?”

“Ồ, có chứ, chắc chắn rồi.”

Rhyme đã hy vọng anh ta sẽ nói như thế.

Frank tiếp tục: “Phải có đến gần trăm cái”.

Rhyme đã hy vọng anh ta đừng nói như thế.

* * *

Đầu ngả ra đằng sau, mắt nhắm nghiền, anh đang thầm xem xét lại các bảng chứng cứ.

Jim Bell và Mason quay lại, cùng với Thom và Ben, nhưng Rhyme không chú ý gì đến họ. Anh đang ở trong thế giới riêng của mình, một thế giới trật tự của khoa học, bằng chứng, logic, một thế giới nơi anh không cần phải vận động, một thế giới nơi may mắn thay những tình cảm anh dành cho Amelia và những gì cô đã làm không được phép bước vào. Các chứng cứ hiện lên trong đầu óc anh rõ ràng y như anh đang đăm đăm nhìn lên tấm bảng viết phấn. Thực tế, khi nhắm mắt, anh còn có thể nhìn nhận chúng rõ rãng hơn.

Sơn đường men nở đất camphene sơn đất đường…men nở…men nở…

Một ý nghĩ lướt qua tâm trí Rhyme, rồi chuồi đi mất. Quay lại nào, quay lại nào, quay lại nào…

Đây rồi! Anh đã chộp được nó.

Rhyme mở choàng mắt. Anh nhìn vào cái góc trống của căn phòng. Bell nhìn theo anh.

“Gì thế, Lincoln?”

“Anh có máy pha cà phê ở đây chứ?”

“Cà phê à?”, Thom hỏi, vẻ không hài lòng. “Không caffeine đâu nhé. Huyết áp của anh đang…”

“Không. Tôi không muốn uống cà phê cà phiếc gì hết. Tôi muốn một cái phin lọc cà phê.”

“Phin lọc? Tôi sẽ lấy một cái cho anh.” Bell rời khỏi phòng và lát sau quay lại.

“Đưa nó cho Ben” Rhyme yêu cầu. Rồi anh bảo nhà động vật học: “Hãy xem những sợi giấy từ cái phin lọc này có phù hợp với những sợi giấy chúng ta đã tìm thấy trên quần áo của Garrett bị bỏ lại chỗ cối xay không”.

Ben chà cho một ít sợi giấy từ cái phin lọc rơi xuống phiến kính. Anh ta chăm chú soi qua thấu kính của chiếc kính hiển vi đối chiếu, điều chỉnh tiêu cự rồi di chuyển bệ kính hiển vi để hai mẫu sát lại bên cạnh nhau trong khung ngắm được chia đôi.

“Màu sắc thì hơi khác, Lincoln, nhưng cấu tạo và kích thước gần như y hệt.”

“Tốt” Rhyme nói, ánh mắt anh bây giờ đặt vào chiếc áo phông dây nước trái cây.

Anh bảo Ben: “Vết nước trái cây, vết nước trái cây trên chiếc áo phông ấy. Hãy nếm lại xem. Nó có hơi chua không? Hay chát?”.

Ben nếm. “Có lẽ là hơi chát. Khó nói được chắc chắn.”

Ánh mắt Rhyme chuyển sang tấm bản đồ, hình dung ra Lucy và hai đồng sự của cô đang sắp sửa đuổi kịp Sachs ở chỗ nào đâu đó giữa bạt ngàn cây cối hoang dã, súng nhăm nhăm nhả đạn. Hoặc Garrett đã lấy được súng của Sachs và biết đâu đang chĩa nó vào cô.

Hoặc cô đang gí súng vào chính đầu mình, siết cò.

“Jim”. Rhyme nói. “Tôi cần anh lấy cái này cho tôi. Để làm mẫu chứng.”

“Được. Ở chỗ nào vậy?” Bell lục túi quần tìm chùm chìa khóa.

“Ồ, anh chẳng cần đi xe đâu.”

* * *

Rất nhiều hình ảnh quay cuồng trong tâm trí Lucy: Jesse Corn ngày đầu tiên đến làm việc tại văn phòng cảnh sát trưởng, giày đồng phục đánh xi bóng loáng nhưng bít tất lại cọc cạch, vì anh đã mặc quần áo từ trước khi trời sáng để chắc chắn không bị muộn giờ.

Jesse Corn, ngồi xổm đằng đuôi một chiếc xuồng máy, vai chạm vai cô, trong lúc Barton Snell – nhăm nhăm khẩu súng hơi – bắn bừa bãi vào mấy người cảnh sát. Chính nhờ sự hài hước nhẹ nhàng của Jesse mà cái gã to xác ấy chịu hạ khẩu Winschester xuống.

Jesse Corn, tự hào lái chiếc xe tải cỡ nhỏ mới tậu màu đỏ tươi đến trụ sở chính quyền quận vào ngày được nghỉ làm và cho đám trẻ con leo lên thùng xe, chạy tới chạy lui khắp bãi đỗ. Đám trẻ đồng thanh hét “Êêêêê” mỗi lần anh phi xe qua các con lươn giảm tốc.

Những hình ảnh này – và hàng chục hình ảnh khác – cứ ám ảnh Lucy trong lúc cô, Ned và Trey băng ngang một cánh rừng sồi lớn. Jim Bell đã bảo họ chờ ở chỗ ngôi nhà lưu động để anh ta cử Steve Farr, Frank và Mason đến, tiếp tục truy đuổi. Anh ta muốn cô và hai người kia quay lại văn phòng. Nhưng họ thậm chí không mất công biểu quyết cho vấn đề đó. Thành kính hết mức có thể, họ đưa xác Jesse vào bên trong ngôi nhà, lấy tấm vải phủ lên. Rồi cô nói với Jim rằng họ sẽ bám theo hai kẻ chạy trốn và chẳng có gì trên đất đai này của Chúa ngăn cản họ được.

Garrett và Amelia đang di chuyển vội vã, không buồn tìm cách xóa dấu vết. Bọn họ đi dọc theo một lối mòn tiếp giáp khu vực đầm lầy. Mặt đất mềm và dấu chân bọn họ in rõ ràng. Lucy nhớ nhận xét mà Amelia nói với Rhyme về hiện trường vụ án tại Bến tàu kênh Nước đen khi nữ cảnh sát tóc đỏ chăm chú nhìn những dấu chân để lại đấy: Trọng lượng của Billy Stail dồn vào các ngón chân, nghĩa là cậu ta đã chạy về phía Garrett cứu Mary Beth. Lucy bây giờ cũng nhận thấy điều này ở dấu chân hai kẻ bị truy đuổi. Bọn họ đang chạy hết tốc lực.

Bởi vậy mà Lucy bảo hai người đồng nghiệp: “Chúng ta chạy thôi”. Và bất chấp nóng nực, kiệt sức, họ bắt đầu chạy.

Họ chạy được một dặm cho tới lúc mặt đất trở nên khô ráo hơn và họ chẳng còn nhìn thấy được các dấu chân nữa. Rồi dấu vết kết thúc ở một cánh đồng cỏ rộng, họ không biết con mồi của họ đã đi đằng nào.

“Mẹ kiếp”, Lucy lẩm bẩm, hổn hển thở và tức điên lên vì mất dấu vết. “Mẹ kiếp!”.

Họ đi xung quanh bãi cỏ, xem xét từng gang tay một nhưng không thể phát hiện được lối mòn hay manh mối nào chỉ ra hướng Garrett và Amelia Sachs đã đi.

“Chúng ta làm gì đây?”, Ned hỏi.

“Gọi điện về và chờ đợi”, Lucy lẩm bẩm. Cô dựa người vào một cái cây, bắt lấy chai nước Trey ném cho, uống cạn.

Cô nhớ lại:

Jesse Corn, rụt rè khoe khẩu súng màu bạc sáng lấp lánh anh dự định dùng tham gia các cuộc thi đấu của Hiệp hội Súng trường Quốc gia. Jesse Corn, đưa cha mẹ anh đến nhà thờ giáo phái Baptist ở phố Locust.

Các hình ảnh cứ quay cuồng trong tâm trí Lucy. Chúng khiến cô đau đớn và khiến cơn giận dữ của cô thêm sôi sục. Nhưng Lucy không cố gắng xua đuổi chúng, cô không muốn cơn giận dữ của cô nguôi ngoai đi khi cô tìm thấy Amelia Sachs.

* * *

Kêu két một tiếng, cánh cửa ngôi nhà gỗ hé mở.

“Mary Beth”, Tom uốn éo gọi. “Cô em ra đây nào, ra đây vui vẻ nào.”

Gã và nhà truyền giáo thì thào với nhau. Rồi Tom lại nói: “Nào, nào, cưng ơi. Đừng sợ. Bọn anh không làm cưng đau đâu. Hôm qua bọn anh chỉ đùa tí thôi mà”.

Mary Beth đứng thẳng người, áp sát vào bức tường, phía sau cánh cửa. Không hé răng. Cầm chặt cây chùy bằng cả hai tay.

Cánh cửa mở ra rộng hơn, những chiếc bản lề lại kêu ken két. Một cái bóng hắt xuống sàn. Tom bước vào, vẻ thận trọng.

“Nó ở đâu?”, nhà truyền giáo thì thào hỏi từ ngoài hàng hiên.

“Có một cái hầm chứa”, Tom nói. “Tao đánh cuộc là nó ở dưới ấy.”

“Ờ, đưa nó lên và biến thôi. Tao không thích chỗ này.”

Tom bước thêm một bước vào. Gã cầm con dao dài lưỡi mỏng dính.

Mary Beth biết về triết lý chiến tranh của người Anh điêng và một trong số các nguyên tắc là nếu việc hòa đàm thất bại và cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi, người ta sẽ không bông lơn hay đe dọa mà người ta sẽ tấn công với tất cả sức lực của mình. Điểm mấu chốt của trận đánh không là nói để kẻ thù chịu khuất phục hay giải thích hay chửi rủa, mà điểm mấu chốt là tiêu diệt.

Và bởi vậy cô bình tĩnh từ phía sau cánh cửa bước ra, thét to như một linh hồn Manitou của người Anh điêng và vung cây chùy lên bằng cả hai tay trong khi Tom xoay phắt lại, mắt trợn tròn kinh hoàng. Nhà truyền giáo kêu lên: “Cẩn thận!”.

Tom không có cơ hội. Cây chùy nện mạnh vào phía trước tai gã, làm hàm gã vỡ toác, và bổ xuống đến nửa cổ họng. Gã buông con dao, ôm chặt lấy cổ họng, khuỵu gối, tắc thở. Gã bò giật lùi ra ngoài.

“Giúp…giúp tao”, Tom hổn hển nói.

Nhưng không có sự giúp đỡ nào – nhà truyền giáo chỉ cúi xuống, túm cổ áo Tom ra khỏi hàng hiên, để mặc gã ngã vật ra đất, ôm bộ mặt vỡ toác, trong lúc Mary Beth quan sát qua cửa sổ. “Đồ ngu.” Nhà truyền giáo lẩm bẩm với gã đồng đảng, rồi rút súng từ túi quần sau. Mary Beth đẩy cho cánh cửa đóng sập lại, trở về chỗ nấp, lau hai bàn tay ướt mồ hôi, nắm chặt cây chùy hơn. Cô nghe thấy tiếng lên đạn.

“Mary Beth, tao có súng đây và mày chắc đã hiểu rằng trong hoàn cảnh này tao không ngần ngại gì mà không sử dụng nó. Hãy ra đi. Nếu mày không ra, tao sẽ bắn và có thể bắn trúng mày đấy.”

Mary Beth khom mình dựa người vào bức tường phía sau cánh cửa, chờ đợi tiếng súng nổ.

Nhưng nhà truyền giáo không bắn. Đó chỉ là trò đánh lừa. Gã đá mạnh cánh cửa và nó đập vào người Mary Beth, làm cô choáng váng mất một lát, ngã lăn quay. Nhưng khi gã bắt đầu bước vào, cô đá cho cánh cửa đóng lại cũng mạnh chẳng kém. Gã chẳng hề ngờ đến bất cứ sự phản kháng nào và phiến gỗ nặng trịch đập vào vai gã, khiến gã loạng choạng. Mary Beth bước về phía gã, vung cây chùy giáng vào mục tiêu duy nhất trên cơ thể gã mà cô giáng tới được – khuỷu tay. Tuy nhiên, gã thụp xuống đúng lúc hòn đá sắp giáng vào gã và cô bị trượt. Đà của cú vung mạnh khiến cây chùy tuột khỏi hai bàn tay ướt mồ hôi của cô, lướt dọc theo sàn nhà.

Tác giả: