Cái ghế trống – Jeffery Deaver

CHƯƠNG MƯỜI

Một dáng người xuất hiện trên ngưỡng cửa, theo sau Jim Bell.

Đó là người đàn ông trạc ngũ tuần, tóc bắt đầu thưa và có gương mặt tròn đạo mạo. Chiếc áo vét màu xanh lam vắt trên cánh tay, còn chiếc sơ mi trắng được là phẳng lỳ và hồ cứng, tuy ở nách thẫm vệt mồ hôi. Chiếc cà vạt kẻ cài ghim buông ngay ngắn.

Rhyme đã nghĩ đây chắc là Henry Davett, nhưng đôi mắt của nhà hình sự học là một trong những bộ phận trên cơ thể trải qua vụ tai nạn mà không hề hấn gì – thị lực anh vẫn hoàn hảo – và anh đọc thấy các chữ cái khắc lồng vào nhau trên cây ghim cài cà vạt từ khoảng cách mười feet: WWJD.

William? Walter? Wayne?

Rhyme chẳng có manh mối nào mà đoán được ông ta là ai.

Người đàn ông nhìn Rhyme, nheo mắt lại vẻ đánh giá và gật đầu chào. Rồi Jim Bell nói: “Henry, xin giới thiệu với ông đây là Lincoln Rhyme.”

Vậy là không phải chữ lồng tên họ ông ta. Đây chính là Davett. Rhyme gật đầu chào lại, đi tới kết luận rằng cây ghim cài cà vạt có lẽ từng thuộc về cha ông ta. William Ward Jonathan Davett.

Ông ta bước vào phòng. Ánh mắt nhanh nhẹn của ông ta lướt qua các thứ thiết bị.

“À, ông biết về máy tách hợp chất phải không?”, Rhyme hỏi, nhận thấy nét mặt Davett biểu hiện ý đồng tình.

“Bộ phận Nghiên cứu và Phát triển của tôi có mấy cái. Nhưng đời này…” Davett lắc đầu vẻ phê phán. “Người ta thậm chí chẳng còn sản xuất nữa. Tại sao các vị vẫn sử dụng?”

“Ngân sách bang, Henry”, Bell nói.

“Tôi sẽ cho chuyển đến đây một cái.”

“Không cần thiết đâu.”

“Đây là thứ giẻ rách”, người đàn ông nói cộc cằn. “Hai mươi phút nữa tôi sẽ cho chuyển đến đây một cái mới.”

Rhyme nói: “Thu thập chứng cứ không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sáng tỏ chúng. Vì thế mà tôi có thể sẽ cần đến sự giúp đỡ của ông. Đây là Ben Kerr, trợ lý khám nghiệm cho tôi.”

Họ bắt tay nhau. Ben xem chừng nhẹ nhõm vì có thêm một người đi lại được bình thường trong căn phòng.

“Mời ông ngồi xuống, Henry”, Ben nói, lăn chiếc ghế văn phòng đến cho ông ta. Người đàn ông ngồi xuống, hơi vươn ra phía trước, cẩn thận vuốt phẳng cà vạt. Cái cử chỉ ấy, tư thế dáng điệu, đôi đồng tử trong cặp mắt đầy tự tin, tất cả khiến Rhyme đi đến nhận xét: hấp dẫn, thông minh… và một tay làm ăn cực kỳ cứng rắn đây.

Rhyme lại băn khoăn về các chữ cái WWJD. Anh chưa chắc chắn rằng mình đã giải được câu đó.

“Việc liên quan tới hai cô gái bị bắt cóc, phải không?”

Bell gật đầu. “Chưa có ai thực sự nói ra những trong thâm tâm…” Anh ta nhìn Rhyme và Ben. “Chúng tôi nghĩ Garrett hẳn đã cưỡng hiếp và giết chết Mary Beth, vứt xác cô gái ở đâu đó.”

Hai mươi tư tiếng đồng hồ….

Viên cảnh sát trưởng tiếp tục. “Nhưng chúng tôi vẫn còn cơ hội cứu Lydia, chúng tôi hy vọng thế. Và chúng tôi phải ngăn chặn Garrett trước khi hắn kịp bắt cóc thêm ai nữa.”

Vị thương gia giận dữ nói: “Và Billy, thật là một nỗi hổ thẹn. Tôi nghe nói cậu ấy chỉ là giữa đường thấy chuyện bất bình, cố gắng cứu Mary Beth mà thành thử thiệt mạng.”

“Garrett đã lấy xẻng đập vỡ đầu cậu ấy. Thật tồi tệ.”

“Vậy bây giờ thời gian là hết sức quý giá. Tôi có thể làm gì?” Davett quay sang Rhyme. “Anh nói phải làm sáng tỏ cái gì đó hả?”

“Chúng tôi đang nắm vài manh mối về nơi Garrett đã trú ngụ và hắn có thể sẽ đưa Lydia đi đâu. Tôi hy vọng ông biết về vùng này và giúp đỡ chúng tôi.”

Davett gật đầu. “Tôi khá thông thạo vùng này. Tôi có bằng về địa chất và kỹ sư hóa. Tôi cũng đã sống cả đời ở Tanner’s Corner và khá quen thuộc quận Paquenoke.”

Rhyme hất đầu chỉ hai bảng chứng cứ. “Xin ông xem hai bảng chứng cứ kia và cho chúng tôi biết một vài suy nghĩ của ông. Chúng tôi đang cố gắng liên hệ các manh mối ấy với một địa điểm cụ thể.”

Bell nói thêm: “Nó có lẽ là một địa điểm mà đi bộ đến được. Garrett không ưa ô tô. Hắn không bao giờ lái xe cả.”

Davett đeo kính và ngả đầu về phía sau, nhìn lên tường.

* * *

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphen

Davett thong thả đọc đi đọc lại, cặp mắt nheo nheo vài lần. Một thoáng cau mày. “Nitrate và ammonia à? Anh biết đó có thể là gì chứ?”

Rhyme gật đầu. “Tôi nghĩ hắn đã đặt một số bom tự tạo để ngăn cản đội tìm kiếm. Tôi nói với họ về việc này rồi.”

Davett nhăn mặt, quay lại bảng chứng cứ. “Chất camphene… Tôi nghĩ nó từng được sử dụng cho những chiếc đèn lồng cổ. Ví dụ những chiếc đèn thắp bằng dầu đá phiến chẳng hạn.”

“Đúng. Vậy chúng ta cho rằng nơi hắn đang giữ Mary Beth là một ngôi nhà cổ. Được xây từ thế kỷ XIX.”

“Chắc chắn xung quanh đây có tới hàng nghìn ngôi nhà, lều lán, chuồng trại cũ kỹ.. Cái gì nữa? Bụi đá vôi… Cái này không thu hẹp được phạm vi tìm kiếm lắm. Có một rặng núi đá vôi chạy dài suốt quận Paquenoke. Nó từng là nguồn lợi lớn cho mọi người ở đây.” Davett đứng lên, di ngón tay chéo trên tấm bản đồ từ mép phía nam đầm lầy Sầu Thảm sang phía tây nam, từ ô L-4 sang ô C-14. “Anh có thể tìm thấy đá vôi ở bất cứ chỗ nào dọc theo đường này. Chứng cứ ấy không mấy hữu ích. Nhưng…” Ông ta bước lùi lại, khoanh hai tay. “Phốt phát thì hữu ích đấy. Bắc Carolina là một nguồn cung cấp phốt phát lớn, nhưng nó không được khai thác ở xung quanh đây. Nơi khai thác ở xa hơn về phía nam. Vậy, kết hợp với chất tẩy, tôi cho rằng hắn đã ở gần khu vực nước bị ô nhiễm.”

“Khỉ gió”, Jim Bell nói. “Như thế có nghĩa hắn ở chính trên sông Paquenoke.”

“Không”, Davett đáp lời. “Sông Paquo sạch sẽ. Nó thẫm màu vì lấy nước từ đầm lầy Sầu Thảm và hồ Drummond.”

“Ôi, đó là thứ nước thần”, viên cảnh sát trưởng nói.

“Thế là thế nào?” Rhyme hỏi.

Davett giải thích: “Một số người già ở đây gọi nước của đầm lầy Sầu Thảm là nước thần. Nó chứa đầy chất tannic acid tiết ra từ lá bách và lá bách xù mục. Chất này tiêu diệt vi khuẩn nên nước để được lâu – trước khi có tủ lạnh người ta từng sử dụng nó làm nước uống trên thuyền buồm. Người ta từng nghĩ nó có các đặc tính kỳ diệu.”

“Vậy…”, Rhyme nói, chẳng bao giờ quan tâm lắm tới những huyền thoại địa phương. “Nếu không phải là sông Paquenoke, dấu vết của phốt phát kia sẽ đặt hắn vào khu vực nào?”

Davett nhìn Bell. “Hắn bắt cóc cô gái thứ hai ở đâu?”

“Cùng chỗ với Mary Beth. Bến tày kênh Nước đen.” Bell chạm vào tấm bản đồ, rồi di ngón tay lên phía bắc tới ô H-9. “Vượt sang bên kia sông, đến một cái chòi săn khoảng vị trí này, rồi tiếp tục đi về phía bắc nửa dặm. Rồi đội tìm kiếm mất dấu vết. Họ đang chờ chúng ta chỉ đường.”

“Ồ, thế thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa”, Davett nói với sự tự tin đáng khích lệ. Nhà doanh nhân di ngón tay sang phía đông. “Hắn đã vượt lạch Đá. Ở vị trí này. Thấy không? Một số thác nước đằng đó sủi bọt như bia, vì trong nước chứa rất nhiều chất tẩy và phốt phát. Nó bắt đầu đổ ra gần thác Hobeth và có đến hàng tấn. Người thị trấn ấy không biết gì về quy hoạch và phân vùng.”

“Tốt”, Rhyme nói. “Bây giờ, sau khi hắn đã sang bên kia con lạch, ông cho rằng hắn sẽ đi theo hướng nào?”

Davett lại đọc bảng chứng cứ. “Nếu anh phát hiện được lá thông bị cắt gãy, tôi phải phỏng đoán rằng hắn đi theo hướng này”. Ông ta đập đập tay vào ô I-5 và ô J-8. “Thông thì có ở khắp Bắc Carolina, nhưng xung quanh đây hầu hết là các cánh rừng sồi, tuyết tùng cổ thụ, bách và bạch đàn. Cánh rừng thông lớn duy nhất mà tôi biết nằm ở phía đông bắc. Đây. Trên đường đến đầm lầy Sầu Thảm”. Davett đăm đăm nhìn hai bảng chứng cứ lâu hơn rồi lắc đầu. “Tôi e mình chẳng thể nói thêm được mấy nữa. Anh đã cử đi mấy đội tìm kiếm rồi?”

“Một đội”, Rhyme trả lời.

“Cái gì?” Davett quay sang anh, cau mày. “Chỉ một đội? Anh đang đùa.”

“Không”, Bell nói, giọng tự vệ trước cuộc kiểm tra chéo cứng rắn của Davett.

“Chà, một đội đông chừng nào?”

“Bốn cảnh sát”, Bell trả lời.

Davett giễu cợt: “Thật điên rồ”. Ông ta hất tay chỉ tấm bản đồ. “Các vị phải lục soát hàng trăm dặm vuông. Đây là Garrett Hanlon… Thằng Bọ. Hắn gần như sống ở phía bắc sông Paquo. Hắn có thể qua mặt các vị trong tích tắc.”

Viên cảnh sát trưởng hắng giọng. “Ông Rhyme đây cho rằng không sử dụng quá nhiều người thì tốt hơn.”

“Anh chẳng thể sử dụng quá nhiều người trong một tình huống như thế này”, Davett nói với Rhyme. “Anh nên lấy năm mươi người, trang bị cho họ súng trường, và bảo họ đập các bụi cây cho tới lúc tìm thấy hắn. Anh đang hoàn toàn sai lầm.”

Rhyme nhận ra Ben đã theo dõi bài thuyết giáo của Davett với vẻ mặt rất xấu hổ. Lẽ dĩ nhiên, nhà động vật học cho rằng người ta phải tế nhị khi tranh luận với một kẻ què quặt. Mặc dù vậy, nhà hình sự học vẫn bình thản nói: “Một cuộc săn lùng lớn chỉ tổ đẩy Garrett đến chỗ giết chết Lydia, rồi lẩn trốn.”

“Không”, Davett nói dứt khoát. “Nó sẽ khiến hắn hoảng sợ mà thả cô gái ra. Tôi có chừng bốn mươi lăm công nhân đang làm ca tại nhà máy. Chà, chừng hơn chục người là phụ nữ. Tôi không thể yêu cầu họ tham gia. Nhưng số nam giới… Hãy để tôi cử họ đi. Chúng tôi sẽ tìm được vài khẩu súng. Cho họ rà soát khắp khu vực lạch Đá.”

Rhyme hoàn toàn có thể hình dung được ba mươi hay bốn mươi tay thợ săn nghiệp dư và hăng hái sẽ làm gì trong một cuộc tìm kiếm như thế này. Anh lắc đầu. “Không, đây mới là cách giải quyết vụ việc.”

Tác giả: