Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Lucy nói: “Nó cũng có thể từ vườn nhà Lydia hay từ sân sau nhà Mary Beth hay từ giày của lũ trẻ đến đây câu cá vài ngày trước.”

“Có thể.” Sachs nói một cách kiên nhẫn. “Nhưng dù sao chúng ta cũng cần làm việc này.” Cô đưa cho Jesse một cái túi nhựa. Anh ta sải bước đi, hài lòng vì được giúp đỡ cô. Sachs bắt đầu xuống đồi. Cô dừng chân, lại mở va li đựng đồ khám nghiệm hiện trường. Không có dây thun. Cô để ý thấy Lucy Kerr cột mấy sợi ở cuối bím tóc tết kiểu Pháp. “Mượn được chứ?”, cô hỏi. “Mấy sợi dây thun ấy?”

Sau một chút chần chừ, nữ cảnh sát tháo chúng ra. Sachs quấn vào giày mình. Cô giải thích: “Thế thì tôi sẽ biết dấu chân nào là của tôi”.

Cứ như điều đó tạo nên sự khác biệt giữa cái bãi lộn xộn này ấy, Sachs tự nhủ.

Cô bước vào hiện trường.

“Sachs, em có gì rồi?”, Rhyme hỏi. Sóng bộ đàm thậm chí tồi hơn cả lúc trước.

“Em không thể hình dung rõ ràng quang cảnh cho lắm.” Sachs vừa trả lời vừa xem xét mặt đất. “Quá nhiều dấu chân. Phải tới tám hay mười người khác nhau đi qua đây trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ vừa rồi. Nhưng em cũng có những hình dung cơ bản về việc xảy ra – Mary Beth đang quỳ dưới đất. Dấu giày của một người là nam giới tiến đến từ phía tây – từ phía dòng kênh. Dấu giày của Garrett. Em nhớ hình dáng đế giày mà Jesse tìm thấy. Em có thể nhận ra nơi Mary Beth đứng lên và lùi lại. Dấu giày một người là nam giới khác tiến đến từ phía nam. Billy. Cậu ta đi xuống bờ đất. Cậu ta di chuyển nhanh – hầu như chỉ trên mũi giày. Vậy là cậu ta đang guồng chân chạy. Garrett tiến về phía cậu ta. Hai người ẩu đả. Billy dựa vào một cây liễu. Garrett tiến về phía cậu ta. Tiếp tục ẩu đả.” Sachs xem xét đường vẽ màu trắng đánh dấu thân thể Billy. “Phát đầu tiên Garrett đập Billy bằng xẻng là đập vào đầu. Cậu ta ngã xuống. Phát ấy chưa giết chết cậu ta. Nhưng Garrett đập cậu ta một phát nữa vào cổ khi cậu ta ngã xuống. Phát ấy mới là phát chí mạng.”

Jesse cất tiếng cười đầy ngạc nhiên, nhìn chằm chằm vào vẫn cái đường vẽ đó y như thể nhìn vào một cái gì hoàn toàn khác với cái Sachs nhìn. “Làm sao chị biết được?”

Cô lơ đãng nói: “Các vết máu. Có mấy giọt nhỏ ở đây”. Cô chỉ xuống mặt đất. “Cùng những giọt như thế rơi thành một đoạn khoảng sáu feet – đó là máu từ đầu Billy. Nhưng cái vết máu phun mạnh kia – thông thường phải từ chỗ đứt động mạch cảnh hoặc tĩnh mạch cảnh – bắt đầu khi cậu ta đã ngã… Được rồi, Rhyme, em bắt đầu khám nghiệm đây.”

Đi theo đường bàn cờ. Từng bước. Từng bước. Ánh mắt đặt lên lớp bụi đất và những cọng cỏ. Ánh mắt đặt lên lớp vỏ đầy đầu mấu của các cây liễu và sồi. Ánh mắt đặt lên các cành nhánh chìa bên trên cao. (“Một hiện trường vụ án là một không gian ba chiều, Sachs ạ”, Rhyme hay nhắc nhở thế.)

“Những đầu mẩu thuốc lá vẫn còn ở đó chứ?”, Rhyme hỏi.

“Vẫn còn.” Sachs quay sang Lucy. “Những đầu mẩu thuốc lá ấy”, cô nói, hất đầu chỉ xuống mặt đất. “Tại sao không nhặt chúng?”

“Ồ.” Jesse trả lời thay cho Lucy. “Của Nathan thôi mà.”

“Ai vậy?”

“Nathan Groomer. Một đồng nghiệp của chúng tôi. Anh ta đã cố gắng cai mà chưa được.”

Sachs thở dài, tuy nhiên kiềm chế không nói ra là bất cứ người cảnh sát nào hút thuốc tại hiện trường vụ án đều đáng bị đình chỉ công tác. Cô xem xét mặt đất kỹ lưỡng, nhưng chẳng có kết quả gì. Mọi loại sợi nhìn thấy được, những mảnh giấy hay các vật chứng khác đều đã bị di chuyển hoặc bị gió cuốn mất. Cô bước tới hiện trường vụ bắt cóc sáng hôm nay, chui qua dải băng vàng và bắt đầu đi theo đường bàn cờ xung quanh cây liễu. Đi tới đi lui, chiến đấu với cảm giác choáng váng vì nóng. “Rhyme, chẳng có gì đáng kể ở đây đâu… nhưng… khoan nào.” Cô khuỵu chân xuống thận trọng nhặt lên một tờ khăn giấy Kleenex bị vo tròn. Đầu gối cô kêu răng rắc – do chứng viêm khớp đã hành hạ cô nhiều năm nay. Thà chạy đuổi theo một đối tượng còn hơn phải ngồi xổm, cô nghĩ. “Kleenex. Trông tương tự những tờ tìm thấy tại nhà hắn, Rhyme. Chỉ có điều tờ này dính máu. Khá nhiều máu.”

Lucy hỏi: “Cô nghĩ Garrett đánh rơi?”

Sachs xem xét nó. “Tôi chưa biết. Tất cả những gì tôi có thẽ nói là nó không ở đây từ đêm hôm qua. Lượng hơi ẩm quá ít. Sương sớm đã phải làm nó rã ra phân nửa rồi.”

“Tuyệt vời, Sachs. Em biết được điều ấy ở đâu? Anh không nhớ đã từng đề cập tới nó.”

“Có, anh đã từng.” Cô nói vẻ lơ đãng. “Sách giáo khoa của anh. Chương mười hai. Về giấy.”

Sachs đi xuống mép nước, xem xét chiếc thuyền nhỏ. Cô không tìm thấy gì. Rồi cô hỏi: “Jesse, anh có thể chèo thuyền đưa tôi sang bên kia được chứ?”

Anh ta, tất nhiên, còn hơn cả mừng rỡ. Và cô tự hỏi liệu bao lâu nữa thì anh ta sẽ đưa ra lời đề nghị đi uống cà phê lần đầu tiên. Chẳng được mời, Lucy cũng trèo vào xuồng và họ đẩy cho nó rời khỏi bờ. Ba người lặng lẽ chèo sang bên kia sông, dòng nước dập dềnh sóng một cách đáng ngạc nhiên.

Trên bờ bên kia, Sachs tìm thấy các dấu chân trên bùn: giày của Lydia – giày vải y tá đế mịn. Và dấu chân Garrett – một chân đi đất, một chân đi chiếc giày chạy mà cô đã biết kiểu đế. Cô đi theo các dấu chân vào rừng. Chúng dẫn đến cái chòi săn nơi Ed Schaeffer bị ong bắp cày đốt. Sachs dừng lại, vô cùng thất vọng.

Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra ở đây vậy?

“Lạy Chúa, Rhyme, trông giống như người ta đã quét hiện trường.”

Các đối tượng tội phạm hay sử dụng chổi hoặc thậm chí cành lá để phá hủy hoặc làm lộn xộn chứng cứ tại nơi gây án.

Nhưng Jesse Corn nói: “Ồ, đó là do chiếc cánh quạt”.

“Máy bay trực thăng ấy à?”, Sachs hỏi, điếng cả người.

“Chà, phải. Chiếc Medevac – để đưa Ed Schaeffer đi.”

“Nhưng gió hút từ những cánh quạt đã làm hỏng hiện trường”, Sachs nói. “Quy trình chuẩn là chuyển nạn nhân bị thương sang chỗ khác rồi mới đáp máy bay xuống.”

“Quy trình chuẩn?” Lucy Kerr hỏi, giọng khó chịu. “Xin lỗi, nhưng chúng tôi hơi lo lắng cho Ed. Phải cố gắng cứu sống ông ấy, cô biết đấy.”

Sachs chẳng đáp lời. Cô từ từ khẽ khàng bước vào chòi sao cho không làm xáo động hàng chục con ong bắp cày đang lượn xung quanh cái tổ vỡ. Tuy nhiên, tấm bản đồ hay bất cứ manh mối nào mà cảnh sát Schaeffer nhìn thấy bên trong bây giờ đã biến mất và gió từ chiếc máy bay trực thăng đã thổi tung lớp đất bề mặt tới nỗi thậm chí nếu lấy mẫu đất cũng sẽ là vô ích thôi.

“Chúng ta hãy trở về la-bô.” Sachs bảo Lucy và Jesse.

Khi họ đang quay lại bờ sông thì có tiếng loạt soạt đằng sau lưng cô và một gã đàn ông khổng lồ bước ra từ đám cây bụi rậm rạp mọc xung quanh cụm liễu đen, khuềnh khoàng tiến đến phía họ.

Jesse Corn chưa kịp rút vũ khí thì Sachs đã rút khẩu Smittie được cho mượn ra khỏi bao, lên cò và chĩa súng vào ngực kẻ vừa đột ngột xuất hiện. Gã đứng sững, giơ hai bàn tay về phía trước, chớp mắt ngạc nhiên.

Gã có râu quai nón, cao và to béo, tóc tết. Quần bò, áo phông xám, gi lê bò. Giày cao cổ. Ở gã có cái gì đó quen quen.

Sachs đã trông thấy gã ở đâu nhỉ?

Jesse phải nhắc tên gã thì cô mới nhớ ra. “Rich.”

Một trong ba gã lúc trước họ gặp bên ngoài trụ sở chính quyền quận. Rich Culbeau – Sachs nhớ cái họ đặc biệt. Sachs cũng nhớ gã và hai gã bạn đã liếc nhìn thân hình cô với sự đểu cáng ngấm ngầm và liếc nhìn Thom với vẻ khinh miệt. Vì thế mà cô chĩa khẩu súng lục vào gã lâu hơn một chút. Rồi cô chầm chậm chúc khẩu súng xuống đất, và đút lại vào bao.

“Xin lỗi”, Culbeau nói. “Tôi không định làm ai hoảng sợ cả. Ê, Jesse.”

“Đây là hiện trường một vụ án”, Sachs nhắc nhở.

Qua bộ tai nghe, cô nghe thấy tiếng Rhyme: “Ai đấy?”.

Sachs quay đi, thì thầm vào micro: “Một trong những nhân vật bước ra từ bộ phim Giải thoát[17] mà chúng ta gặp sáng hôm nay.”

“Chúng tôi đang làm việc ở đây, Rich”, Lucy nói. “Anh không thể gây cản trở cho chúng tôi.”

“Tôi không định gây cản trở cho các cô”, Cullbeau nói chuyển sang nhìn chằm chằm vào rừng. “Nhưng tôi có quyền thử vận may với một nghìn ấy giống như tất cả những người khác. Các cô làm sao yêu cầu tôi ngừng tìm kiếm được.”

“Một nghìn nào?”

“Chết tiệt.” Sachs buột thốt vào micro. “Người ta treo một giải thưởng, Rhyme.”

“Ồ, không. Đó là thứ cuối cùng chúng ta cần.”

Trong số các yếu tố chính làm hỏng hiện trường vụ án và gây cản trở cho việc điều tra thì giải thưởng và những kẻ thích tìm kiếm vật lưu niệm là tệ hại nhất.

Culbeau giải thích: “Bà mẹ Mary Beth treo giải thưởng này. Bà ta có tiền và tôi cá là đến xẩm tối, nêu cô con gái vẫn chưa trở về, bà ta sẽ treo giải hai nghìn. Có khi còn cao hơn.” Rồi anh ta lại nhìn Sachs. “Tôi sẽ không gây bất cứ phiền phức nào, thưa cô. Cô chẳng phải người ở đây, cô nhìn tôi và nghĩ tôi đích thị là kẻ vô tích sự – tôi đã nghe thấy cô nói cái tên Giải thoát vào chiếc bộ đàm đáng yêu kia của cô. Dù sao, tôi cũng ưa cuốn sách hơn bộ phim. Cô đã đọc chưa? Chà, chẳng thành vấn đề. Có điều đừng căn cứ quá nhiều vào hình thức để đánh giá. Jesse, hãy nói cho cô ta biết ai đã cứu đứa con gái bị mất tích trong đầm lầy Sầu Thảm năm ngoái. Ai mà tất cả mọi người đều biết là đã xông pha vào chốn rắn rết, muỗi mòng và khiến toàn quận thương xót.”

Jesse nói: “Rich và Harris Tomel đã tìm được cô bé. Bị mất tích ba ngày trong đầm lầy. Nếu không có họ, cô bé chắc chết.”

“Chủ yếu là tôi”, Culbeau lẩm bẩm. “Harris có bao giờ thích giày bị bẩn.”

“Anh đã làm một việc tốt”, Sachs nói bằng giọng thiếu thân mật. “Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng anh không khiến chúng tôi mất cơ hội tìm thấy hai cô gái.”

Tác giả: