Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Chiếc xuồng hẹp họ đánh cắp từ ngôi nhà nghỉ trôi theo dòng Paquenoke, xuyên qua màn sương đặc quánh như dầu bao trùm trên sông. Trời đã chạng vạng. Mặt nước không còn màu ánh vàng nữa mà chuyển sang màu xám ảm đạm.

Garrett Hanlon cầm một mái chèo từ dưới đáy xuồng lên, chèo vào bờ. “Chúng ta phải cập bờ ở chỗ nào đó”, gã nói. “Trước khi trời, nói chung, tối hẳn.”

Amelia Sachs nhận ra quang cảnh đã thay đổi. Cây cối đã thưa thớt đi và những vũng lầy lớn gặp gỡ dòng sông. Gã trai nói đúng, một chỗ ngoặt sai lầm sẽ có thể đưa họ vào một ngóc ngách của bãi lầy nào đấy mà không thể thoát ra được.

“Này cô, sao vậy?”, Garrett hỏi, trông thấy vẻ lo lắng trên gương mặt Sachs.

“Tôi đang cách quá xa Brooklyn.”

“Chỗ đó ở New York à?.”

“Phải”, Sachs nói

Garrett búng móng tay. “Và vì đang không ở đấy mà cô không yên lòng?”

“Chắc chắn là thế.”

Vừa lái xuồng vào bờ, Garrett vừa nói: “Đó là điều bọn côn trùng sợ hãi nhất”.

“Điều gì?”.

“Nói chung, thật kì lạ. Bọn chúng không ngại lao động, cũng không ngại chiến đấu. Tuy nhiên bọn chúng đều hoảng hốt hết cả khi rơi vào một môi trường xa lạ. Thậm chí nếu đấy là một môi trường an toàn. Bọn chúng ghét điều đó, không biết phải làm gì.”

Được, Sachs nghĩ, tôi cho rằng tôi là một con côn trùng mang thẻ cảnh sát. Cô thích cách diễn đạt của Lincoln hơn: cá trên cạn.

“Người ta luôn luôn nhận ra được khi nào thì một con côn trùng thực sự lo lắng. Nó cọ đi cọ lại râu… Râu của côn trùng bộc lộ tâm trạng của chúng. Giống như bộ mặt chúng ta vậy. Chỉ có điều…”, Garrett nói thêm đầy ẩn ý, “chúng không mang những bộ mặt giả vờ. Giống như chúng ta”. Gã cất tiếng cười kì cục – Sachs chưa nghe thấy tiếng cười kiểu ấy bao giờ.

Garrett nhẹ nhàng đu qua mạn xuồng bước xuống nước và kéo chiếc xuồng lên bờ. Sachs trèo ra. Gã dẫn cô đi xuyên rừng và dường như biết chính xác sẽ phải đi đến đâu bất chấp bóng tối chạng vạng và không có lối mòn nào mà cô trông thấy được cả.

“Làm sao cậu biết phải đi đến đâu?”, Sachs hỏi.

Garrett nói: “Tôi cho rằng tôi là loài Vương Điệp. Tôi có khả năng xác định phương hướng khá tốt”.

“Vương Điệp?”.

“Cô biết đấy, một loài bướm ấy mà. Chúng di cư xa cả nghìn dặm và biết chính xác phải bay đến đâu. Thực sự rất hay nhé – chúng xác định phương hướng theo mặt trời và tự động đổi đường bay phụ thuộc vào đường chân trời. Ồ, và khi trời u ám hoặc đêm tối, chúng sử dụng một giác quan khác – chúng cảm nhận được từ trường của trái đất”.

Khi một con dơi phóng ra một chùm âm thanh để tìm kiếm chúng, những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất, ẩn trốn.

Sachs đang mỉm cười trước bài giảng đầy nhiệt tình của Garrett thì cô đột ngột ngưng lại, khom mình xuống. “Nhìn kìa”, cô thì thầm. “Kia kìa! Có ánh sáng”.

Vùng ánh sáng yếu ớt phản chiếu trên mặt một cái ao âm u. Thứ ánh sáng màu vàng đáng sợ trông giống như ánh đèn lồng sắp tắt.

Nhưng Garrett cười to.

Sachs nhìn gã dò hỏi.

Gã nói: “Chỉ là một hồn ma thôi”.

“Cái gì?”, Sachs hỏi.

“Đó là Thủy nữ Đầm lầy. Nói chung, cái cô gái Anh điêng này đã chết vào đêm trước lễ cưới. Hồn ma cô ta vẫn lội khắp đầm lầy Sầu Thảm tìm kiếm người con trai mà cô ta đáng lẽ sẽ lấy làm chồng. Chúng ta đang không ở khu vực đầm lầy Sầu Thảm, nhưng nó cũng gần đây”. Garrett hất đầu về phía ánh sáng mờ đục. “Thực ra thì đó chỉ là hiện tượng phát quang sinh học – một loài nấm khổng lồ phát sáng”.

Sachs không thích thứ ánh sáng kia. Nó gợi cho cô nhớ tới cái cảm giác bứt rứt trong lòng khi họ lái xe đi vào Tanner’s Corner sáng nay, trông thấy cỗ quan tài nhỏ giữa đám tang ấy.

“Tôi không thích khu vực đầm lầy này, dù có hay không có ma”, Sachs nói.

“Thế á?”, Garrett hỏi lại “Có thể rồi cô sẽ thấy thích. Một ngày nào đó”.

Gã dẫn Sachs đi dọc một con đường, và mười phút sau thì gã rẽ xuống một lối ngắn cho xe chạy vào nhà, um tùm cỏ mọc. Một cái nhà lưu động đỗ trên bãi đất trống. Trong bóng tối lờ mờ, cô không trông thấy được rõ ràng, nhưng dường như nó là một cái nhà lưu động đổ nát, nghiêng sáng một bên, gỉ sét, các lốp bẹp gí, phủ đầy dây thường xuân và rêu.

“Của cậu à?”

“Chà, đã nhiều năm không ai sống ở đây cả, nên tôi cho rằng nó là của tôi. Tôi có chìa khóa nhưng chìa khóa lại để đằng nhà. Tôi không kịp lấy.” Garrett đi vòng sang bên hông và cạy được một ô cửa sổ, đu lên chui vào qua đó. Lát sau, cửa ra vào mở ra.

Sachs bước vào. Garrett đang lục lọi cái tủ kê trong căn bếp bé tí. Gã tìm thấy diêm và châm chiếc đèn lồng đốt bằng khí Propane. Nó tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng ấm áp. Gã mở một cái tủ khác, nhòm vào bên trong. “Tôi có ít khoai tây chiên Doritos, nhưng lũ chuột xơi mất rồi”. Garrett lôi ra một cái hộp nhựa, xem xét. “Nhai nát hết cả. Mẹ kiếp. Nhưng tôi có mì ống hiệu Farmer John. Ngon đấy. Tôi ăn suốt. Và cả ít đậu nữa.” Gã bắt đầu mở các hộp thực phẩm trong lúc Sachs nhìn xung quanh. Vài cái ghế, một cái bàn. Cô trông thấy trong phòng ngủ một cái nệm dơ dáy. Trên sàn phòng khách là chiếc gối và tấm thảm dày. Bản thân ngôi nhà lưu động đã toát ra vẻ nghèo khổ: đồ đạc và các cánh cửa nứt gãy, cửa sổ vỡ kính, những vết đạn xuyên trên tường, thảm ố bẩn đến mức chẳng tài nào giặt sạch được. Hồi cô còn làm cảnh sát tuần tra ở Sở Cảnh Sát New York, cô từng nhìn nhiều chốn đáng buồn như thế này – nhưng bao giờ cũng chỉ nhìn từ bên ngoài. Bây giờ thì đây chính là chốn dung thân tạm thời của cô.

Sachs nghĩ về lời Lucy nói ban sáng.

Luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất kì ai ở phía Bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn trước khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn toàn không vấn đề gì cả.

Nhớ tới những phát súng săn quá đỗi bất ngờ, nhằm vào cô và Garrett.

Gã trai mắc mấy mảnh vải nhờn nhụa lên cửa sổ để tránh cho người ta trông thấy ánh sáng bên trong ngôi nhà. Gã bước ra ngoài một lát rồi quay vào, mang theo cái cốc han gỉ, đựng đầy nước mưa, có lẽ thế. Gã chìa cái cốc cho Sachs. Cô lắc đầu. “Cảm giác như tôi phải uống phân nửa nước sông Paquenoke.”

“Nước này hơn nước sông.”

“Tôi chắc chắn vậy. Dù sao tôi cũng không uống đâu.”

Garrett uống cạn cốc nước, rồi khuấy thức ăn đang đun trên chiếc bếp lò sử dụng khí propane. Bằng giọng êm ái, gã ngân nga mãi một giai điệu kì quặc: Farmer John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John… Đó chỉ là một giai điệu quảng cáo, tuy nhiên cái giai điệu này gây tâm trạng bối rối không yên và Sachs thấy mừng khi gã thôi hát.

Sachs không định ăn, nhưng cô bất chợt nhận ra rằng mình đang đói muốn chết. Garrett đổ thức ăn vào hai cái bát và đưa cho cô chiếc thìa. Cô nhổ nước bọt vào chiếc thìa, lấy áo sơ mi lau. Họ im lặng ăn vài phút.

Sachs để ý thấy một âm thanh cất lên bên ngoài, một âm thanh cao, nghe chói tai. “Gì thế?”, cô hỏi. “Ve sầu à?”.

“Phải”, Garrett trả lời. “Chỉ những con đực mới kêu như thế thôi. Chỉ những con đực. Chúng tạo ra tất cả những âm thanh đó chỉ nhờ những tấm màng nhỏ trên thân”. Gã nheo mắt, ngẫm nghĩ một lát. “Cuộc đời của chúng hết sức kì lạ… Ấu trùng đào đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mươi năm, trước khi nở. Rồi chúng chui lên và leo lên cây. Vỏ của chúng nứt theo đường dọc, con ve sầu trưởng thành bò ra. Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm con ve sầu trưởng thành.”

“Tại sao cậu thích côn trùng đến vậy, Garrett?”, Sachs hỏi.

Gã ngập ngừng. “Tôi không biết. Tôi cứ thích thế thôi.”

“Cậu chưa bao giờ tự thắc mắc điều ấy à?”

Garrett ngừng ăn. Gã gãi một vết lằn đỏ vì lá sồi độc. ” Tôi nghĩ tôi bắt đầu quan tâm đến côn trùng từ sau khi bố mẹ tôi mất. Khi việc đó xảy ra tôi rất buồn bã. Tôi cảm thấy đầu óc mình không bình thường. Tôi bối rối và, tôi không biết, chỉ biết rằng không bình thường. Các giáo viên tham vấn tâm lý ở trường cứ bảo nguyên nhân là do cái chết của bố mẹ và đứa em gái tôi, và họ, nói chung, bảo tôi nên chịu khó làm việc hơn để vượt qua. Nhưng tôi không thể. Tôi cứ cảm thấy như tôi không phải một người thực sự. Tôi không quan tâm đến bất cứ thứ gì. Tôi chỉ nằm bẹp trên giường hoặc đi vào đầm lầy, vào rừng, đọc sách. Trong vòng một năm, tôi chỉ làm chừng ấy việc. Nói chung, tôi hầu như không giáp mặt ai. Cứ chuyển từ nhà cha mẹ nuôi này sáng nhà cha mẹ nuôi khác… Nhưng rồi tôi đã đọc được những chi tiết thú vị trong cuốn sách kia.”

Lật cuốn Thế giới thu nhỏ, Garrett tìm đến một trang. Gã đưa nó cho Sachs xem. Gã đã khoanh tròn đoạn có đầu đề là “Đặc điểm của những sinh vật lành mạnh”. Sachs lướt qua vài điểm trong số tám hay chín đểm được liệt kê.

* * *

– Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để lớn lên và phát triển.

– Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để sống sót.

– Một sinh vật lành mạnh luôn luôn nỗ lực để thích nghi với môi trường xung quanh.

* * *

Garrett nói: “Tôi đọc những điều ấy và, chà chà, xem chừng tôi có thể như thế được. Tôi có thể trở lại lành mạnh và bình thường. Tôi hết sức cố gắng làm theo các quy tắc kia. Và tôi cảm thấy khá hơn. Bởi vậy tôi cho rằng tôi trở nên gần gũi với chúng – ý tôi là đám côn trùng.”

Một con muỗi đậu xuống cánh tay Sachs. Cô cười to. “Nhưng chúng cũng uống máu người ta nữa.” Cô đập cho nó một phát. “Hết đời cu cậu.”

Cô ả chứ”, Garrett đính chính. “Chỉ muỗi cái mới hút máu thôi. Muỗi đực hút mật hoa.”

“Thật à?”

Garrett gật đầu rồi im lặng một lát. Gã nhìn cái chấm máu trên cánh tay Sachs. “Côn trùng không bao giờ biến mất.”

“Ý cậu là gì?”

Garrett tìm đến một đoạn khác trong cuốn sách, đọc to. “Nếu có những sinh vật nào được gọi là bất tử thì đó chính là côn trùng, những sinh vật đã tồn tại trên trái đất hàng triệu năm trước khi các loài thú xuất hiện và sẽ vẫn còn tồn tại dài lâu sau khi đời sống văn minh chấm dứt”. Garrett đặt cuốn sách xuống, ngẩng nhìn Sachs. “Cô thấy đấy, vấn đề là, nếu cô giết chết một con sẽ vẫn còn nhiều con khác. Nếu bố mẹ và đứa em gái tôi là côn trùng thì khi họ qua đời sẽ có những người khác giống như họ và tôi sẽ không phải đơn độc.”

Tác giả: