Cái ghế trống – Jeffery Deaver

“Dây câu cân rưỡi”. Rhyme vừa nhìn cuộn dây vừa nhận xét. “Cỡ đó để câu cá nhỏ, phải không Ben?”

“Cỡ đó bắt một con cá vền[21], cũng chưa chắc được, thưa ông”

Kết quả về các dấu vết ở chiếc quần của gã trai nhấp nháy trên màn hình máy vi tính. Rhyme đọc to: “Dầu hỏa, lại ammonia, lại nitrate, và lại cái chất camphene kia. Thom, làm ơn lập một bảng khác.”

Rhyme đọc.

TÌM THẤY TẠI HỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene

Rhyme nhìn chằm chằm hai bảng chứng cứ. Cuối cùng, anh nói: “Thom, gọi điện đi. Gọi cho Mel Cooper.”

Anh chàng phụ tá nhấc máy điện thoại, quay những con số đã thuộc lòng.

Cooper, người hợp tác với các nhân viên khám nghiệm của Sở Cảnh sát New York, có lẽ nặng bằng nửa Ben. Anh ta trông giống một nhân viên định phí bảo hiểm rụt rè, còn thực tế là một trong những chuyên gia la-bô khám nghiệm hàng đầu cả nước.

“Cậu mở loa ngoài cho tôi nghe được không, Thom?”

Anh chàng phụ tá nhấn một cái nút và lát sau giọng nam cao nhẹ nhàng của Cooper cất lên. “Chào anh, Lincoln. Tôi được biết là giờ anh không ở bệnh viện.”

“Làm sao anh biết, Mel?”

“Chẳng cần suy diễn lắm đâu. Điện thoại tôi hiện danh tính người gọi là Trụ sở Chính quyền quận Paquenoke. Anh hoãn phẫu thuật à?”

“Không. Chỉ là đang giúp giải quyết một vụ án ở đây thôi. Nghe này, Mel, tôi không có nhiều thời gian và tôi cần thông tin về một chất tên là camphene. Anh đã bao giờ biết tới nó chưa?”

“Chưa. Nhưng đợi đã. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.”

Rhyme nghe thấy tiếng gõ bàn phím liên hồi. Cooper cũng là tay gõ bàn phím nhanh nhất mà Rhyme từng gặp.

“Được rồi, chúng ta có đây…. Rất thú vị…”

“Tôi không cần cái sự thú vị, Mel. Tôi cần thông tin chính xác.”

“Nó là một loại terpene – hợp chất carbon và hydrogen. Có nguồn gốc thực vật. Nó từng được sử dụng làm thành phần của thuốc trừ sâu nhưng đã bị cấm từ đầu thập kỷ tám mươi. Thời gian nó được sử dụng phổ biến là cuối những năm 1800. Nó được sử dụng để thắp đèn. Một công nghệ tiên tiến vào thời gian đó – thay cho mỡ cá voi. Hồi ấy, nó được coi như khí ga thiên nhiên. Anh đang lần theo dấu vết một đối tượng chưa xác định được danh tính à?”

“Hắn không phải một đối tượng chưa xác định được danh tính, Mel. Danh tính của hắn đã hết sức rõ ràng. Chỉ là chúng tôi chưa thể tìm thấy hắn. Những chiếc đèn cũ kỹ? Vậy dấu vết của camphene có khả năng chỉ ra rằng hắn đang ẩn náu tại địa điểm nào đấy xây dựng từ thế kỷ XIX.”

“Có khả năng. Nhưng cũng có khả năng khác. Vì anh nên biết ngày nay camphene chỉ có ứng dụng duy nhất trong công nghệ chế tạo các chất thơm.”

“Loại nào?”

“Chủ yếu là nước hoa, nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu và mỹ phẩm.”

Rhyme cân nhắc điều này. “Tỷ lệ camphene trong các chất thành phẩm là bao nhiêu?”, anh hỏi.

“Chỉ là những lượng cực kỳ nhỏ. Tính theo phần nghìn.”

Rhyme vẫn luôn luôn bảo các nhóm khám nghiệm của mình đừng bao giờ sợ đưa ra những sự suy diễn táo bạo trong phân tích chứng cứ. Tuy nhiên, anh cũng đau đớn ý thức được khoảng thời gian ngắn ngủi mà hai cô gái kia có thể còn tồn tại trên đời này, và anh cảm thấy hiện họ chỉ vừa đủ nhân lực, vật lực để lần theo một trong hai đầu mối ấy thôi.

“Chúng ta sẽ phải chọn khả năng này”, Rhyme tuyên bố. “Chúng ta sẽ đặt giả thiết rằng dấu vết camphene là từ những chiếc đèn lồng cũ kỹ, loại bỏ khả năng từ các chất thơm, và theo đó mà hành động. Bây giờ, nghe này, Mel, tôi cũng sẽ gửi cho anh ảnh chụp một chiếc chìa khóa. Tôi cần anh lần tìm nguồn gốc của nó.”

“Đơn giản. Khóa xe hơi à?”

“Tôi không biết.”

“Khóa nhà?”

“Không biết.”

“Gần đây vẫn dùng?”

“Không manh mối.”

Cooper nói đầy vẻ hoài nghi: “Có lẽ không đơn giản như tôi tưởng. Nhưng cứ gửi cho tôi, tôi sẽ làm những gì có thể.”

Khi cuộc điện thoại kết thúc, Rhyme yêu cầu Ben chụp cả hai mặt chìa khóa và fax cho Cooper. Rồi anh thử liên lạc với Sachs bằng bộ đàm. Bộ đàm không hoạt động. Anh gọi vào máy di động của cô.

“A lô?”

“Sachs, anh đây.”

“Bộ đàm sao thế?”, cô hỏi.

“Không có sóng.”

“Bọn em nên đi theo hướng nào, Rhyme? Bọn em đã sang bên kia sông nhưng bị mất dấu vết. Và, nói thật…”, giọng Sachs hạ xuống thành thì thầm. “Mấy người ở đây không bình tĩnh. Lucy đang muốn ăn thịt em.”

“Anh đã thực hiện những phân tích cơ bản, nhưng anh chẳng biết làm gì với tất cả các dữ liệu này – anh đang đợi ông chủ nhà máy ở Bến tàu kênh Nước đen. Henry Davett. Chưa biết ông ta tới lúc nào. Nhưng nghe này, Sachs, còn một việc nữa anh phải nói với em. Anh phát hiện ra dấu vết rất đáng kể của ammonia và nitrate trên quần Garrett và trong chiếc giày hắn đánh rơi.”

“Bom à?”, Sachs hỏi, cái giọng âm vang của cô bộc lộ nỗi choáng váng.

“Có vẻ như vậy. Và cuộn dây câu em tìm thấy quá mảnh để tính chuyện câu kéo nghiêm chỉnh. Anh nghĩ hắn sử dụng nó làm dây bẫy kích nổ. Lát nữa đi từ từ thôi. Quan sát xem có bẫy không. Nếu em trông thấy cái gì đó giống như là một manh mối, hãy đề phòng bị lừa.”

“Em sẽ chú ý, Rhyme.”

“Ở nguyên đấy. Hy vọng tôi sớm có chỉ dẫn cho các vị.”

* * *

Garrett và Lydia đi thêm được ba hay bốn dặm nữa.

Mặt trời lúc này đã lên cao. Có lẽ đã trưa, hoặc gần trưa, nóng như trong lò. Ít nước đóng chai mà Lydia uống ở chỗ mỏ đá nhanh chóng chuyển thành mồ hôi và cô lả đi vì nóng và khát.

Như thể cảm nhận được điều này, Garrett nói: “Chúng ta sắp sửa tới đấy rồi. Tới đấy sẽ mát hơn. Và tao đã chuẩn bị nhiều nước.”

Mặt đất trải ra ở đây. Những cánh rừng cây cối gãy đổ, những đầm lầy. Không nhà cửa, không đường sá. Nhiều lối mòn cũ kỹ tỏa theo nhiều hướng khác nhau. Những người đang tìm kiếm họ sẽ hầu như không tài nào xác định được lối họ đã đi – những lối mòn chằng chịt tựa mê cung vậy.

Garret hất đầu chỉ một trong những lối mòn hẹp này, bên trái là các tảng đá, bên phải là cái dốc cao hai mươi feet. Họ đi chừng nửa dặm dọc theo lối mòn này, rồi gã dừng lại. Gã ngoái nhìn đằng sau.

Có vẻ hài lòng vì không thấy ai ở gần, Garrett bước vào trong đám cây bụi và trở ra với một sợi dây nilon – trông giống như loại dây câu mảnh – gã đem chăng ngang lối mòn, gần sát mặt đất. Hầu như không thể phát hiện được. Gã buộc sợi dây vào một chiếc gậy, chiếc gậy này đỡ một cái chai thủy tinh cỡ ba hay bốn gallon đựng đầy thứ chất lỏng màu sữa. Có chút chất cặn bám trên thành chai và Lydia ngửi thấy một mùi thoang thoảng – mùi ammonia. Cô khiếp sợ. Một quả bom ư? Cô băn khoăn tự hỏi. Là y tá trực phòng cấp cứu, cô từng xử lý vài trường hợp thiếu niên bị thương do mày mò chế tạo các thiết bị phát nổ. Cô nhớ da thịt bị cháy đen của chúng đã nát bươm ra như thế nào.

“Cậu không thể làm vậy”, Lydia thì thào.

“Tao chẳng muốn nghe những lời vô nghĩa của mày”. Gã trai búng ngón tay. “Tao sẽ thu xếp xong các thứ ở đây, rồi chúng ta về nhà.”

Nhà?

Lydia đứng chết lặng, nhìn chằm chằm vào cái chai lớn mà Garrett phủ lên bằng cành cây.

Garrett lại kéo cô đi xuôi theo lối mòn đó. Mặc dù ngày mỗi lúc một nóng hơn, gã di chuyển nhanh hơn và cô phải khó khăn lắm mới theo kịp cái thằng người mỗi lúc một bẩn thỉu hơn, dính đầy bụi và những mảnh lá mục. Như thể chính bản thân gã đang từ từ biến thành một con côn trùng với mỗi bước rời xa hơn nền văn minh. Nó gợi cho cô nhớ tới câu chuyện nào đó cô từng được yêu cầu đọc hồi đi học mà chưa bao giờ cô đọc hết.

“Lên trên kia”, Garrett hất đầu về phía một ngọn đồi. “Trên đó có chỗ cho chúng ta nghỉ lại. Sẽ tiếp tục đi ra biển vào sáng mai.”

Bộ đồng phục Lydia mặc ướt sũng mồ hồi. Hai khuy áo trên cùng bật ra và màu trắng chiếc áo lót lồ lộ. Gã trai liên tục nhìn vầng ngực tròn của cô gái. Nhưng cô hầu như chẳng quan tâm. Lúc này, cô chỉ muốn trốn thoát bầu không khí ngoài trời, chui vào một bóng râm mát mẻ nào đất, bất cứ chỗ nào gã sẽ đưa cô tới.

Mười lăm phút sau, họ vượt qua khu rừng và đi vào một bãi đất trống. Trước mặt họ xuất hiện một cái cối xay cũ, xung quanh mọc đầy sậy, hương bồ, cỏ cao. Nó nằm bên cạnh một dòng suối mà phần nhiều đã bị đầm lầy lấn sang. Một cánh cối xay cháy rụi. Giữa đống gạch vụn vươn lên một cái ống khói cháy sém – được gọi là “Đài kỷ niệm Tướng Sherman”, gọi theo tên vị tướng phe Liên bang, người đã đốt hết nhà cửa làng mạc trong lúc hành quân ra biển, bỏ lại một vùng toàn những ống khói cháy đen đằng sau.

Garrett dẫn Lydia vào khu vực phía trước của cối xay, khu vực không bị lửa liếm tới. Gã đẩy cô qua khung cửa và kéo cánh cửa bằng gỗ sồi nặng đóng sập lại, cài then. Gã đứng nghe ngóng hồi lâu. Sau khi xem chừng đã hài lòng vì không có ai bám theo, gã đưa cho cô một chai nước nữa. Cô phải chiến đấu với niềm thôi thúc muốn dốc ngược chai nước uống một mạch. Cô hớp một hớp đầy, chưa nuốt ngay, mà cảm nhận được cái buốt tê trong khoang miệng khô khốc, rồi mới chậm rãi nuốt xuống

Khi Lydia uống xong, Garrett lấy cái chai, cởi trói cho cô, rồi lại trói quặt hai tay cô ra đằng sau. “Cậu phải làm như thế sao?”, cô tức giận hỏi.

Gã trai đảo mắt trước câu hỏi ngớ ngẩn. Gã đẩy cô ngồi xuống sàn. “Ngồi đây và ngậm cái mồm chết tiệt của mày lại.” Garrett ngồi dựa vào bức tường đối diện, khép mắt. Lydia vươn đầu về phía cửa sổ, nghe ngóng xem có tiếng máy bay trực thăng hay tiếng những con thuyền đi trên đầm lầy hay tiếng sủa của bầy chó chuyên tìm kiếm cứu nạn không. Nhưng cô chỉ nghe thấy tiếng thở của Garrett, mà cô kết luận trong nỗi tuyệt vọng rằng đó thực sự là tiếng Chúa bỏ rơi cô.

Tác giả: