Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Đôi giày cũ kỹ hiệu Nikes – là loại giày phổ biến tới nỗi không thể nào lần ra cửa hàng mà Garrett đã mua nó.

“Vết lá khô, trông có vẻ thế. Lá thích hoặc lá sồi. Nếu tôi bắt buộc phải phỏng đoán.”

Rhyme gật đầu. “Còn gì khác trong hộp không?”

“Không.”

Rhyme ngẩng nhìn các bảng chứng cứ trước. Ánh mắt anh dừng lại ở chất camphene.

“Sachs, trong cối xay, có những cái đèn đốt cổ treo trên tường không? Hoặc là đèn lồng?”

“Không”, Sachs trả lời. “Không có.”

“Em có chắc chắn không?”, Rhyme cộc cằn gặng. “Hay em hoàn toàn không chú ý?”

Sachs khoanh tay trước ngực, nói giọng đều đều: “Sàn lát gạch hai mươi lăm[31] màu nâu đỏ sẫm, tường là vách trát vữa. Một bức có dòng chữ graffiti bằng sơn phun màu xanh da trời: “Josh và Brittany, yêu nhau mãi mãi”, từ “love” (yêu) được viết thành L-U-V. Có một chiếc bàn kiểu Shaker, bị nứt ở giữa và sơn màu đen, ba chai nước hiệu Deer Park, một phong kẹo sôcôla nhân bơ lạc hiệu Reese’s, năm túi Doritos, hai túi khoai tây chiên Cape Cod, sáu lon Pepsi, bốn lon Coke, tám phong bích quy bơ lạc với phó mát hiệu Planters. Có hai cửa sổ. Một bịt ván. Một không bịt ván thì chỉ còn một tấm kính lành lặn – các tấm khác đã bị đập vỡ – và tất cả các quả đấm cửa, các chốt cài cửa sổ đều đã bị đánh cắp. Có các công tắc điện kiểu cũ gắn trên tường. Và, phải, em chắc chắn rằng không có cái đèn đốt cổ nào cả.”

“Ái chà, ông thua chị ấy rồi, Lincoln”, Ben vừa nói vừa cười to.

Về phe với Sachs, chàng thanh niên nhận được cái quắc mắt của Rhyme. Nhà hình sự học lại đăm đăm nhìn bảng chứng cứ rồi lắc đầu, bảo Bell: “Tôi xin lỗi, Jim, tôi chẳng thể nói được gì hơn ngoài việc cô gái có lẽ đang bị giữ trong một ngôi nhà không cách xa biển nhưng – nếu những loài cây thay lá mọc gần đó – nó không ở sát biển. Vì sồi và thích không có ở vùng cát. Và đó là một ngôi nhà cổ – vì có đèn đốt bằng camphene. Từ thế kỷ XIX. Tôi e rằng tôi chỉ nói được vậy thôi.”

Bell nhìn tấm bản đồ bờ biển miền Đông, lắc đầu. “Chà, tôi sẽ nói chuyện lại với Garrett, xem hắn có chịu hợp tác không. Nếu không, tôi sẽ gọi cho ủy viên công tố và tính tới một thỏa thuận điều đình nhận tội để đổi lấy thông tin. Trong trường hợp xấu nhất, tôi sẽ tiến hành lục soát khu Bờ Ngoài. Tôi phải nói với anh Lincoln, anh là ân nhân cứu mạng. Tôi không thể cảm ơn anh cho đủ được. Anh còn ở đây một lát nữa chứ?”

“Chỉ đủ để bảo Ben cách thu dọn các thiết bị thôi.”

Rhyme tự nhiên lại nghĩ tới biểu tượng may mắn của mình, Henry Davett. Nhưng anh ngạc nhiên thấy sự phấn chấn vì nhiệm vụ đã kết thúc bị lấn át bởi nỗi thất vọng khi câu trả lời cuối cùng cho bài toán tìm kiếm Mary Beth McConnell vẫn trốn tránh anh. Tuy nhiên, như vợ cũ anh từng nói mỗi lần anh bước ra khỏi cửa căn hộ của hai người lúc một hay hai giờ sáng để đi khám nghiệm hiện trường một vụ án, “anh không thể cứu vớt cả thế giới”. “Tôi chúc anh may mắn, Jim.”

Sachs bảo Bell: “Anh không cảm thấy phiền nếu tôi đi cùng anh chứ? Đi gặp Garrett?”

“Xin cứ tự nhiên”, viên cảnh sát trưởng đáp. Anh ta xem chừng muốn nói thêm điều gì – có thể là về việc cái duyên dáng của nữ giới sẽ giúp họ khai thác thông tin từ gã trai. Nhưng rồi anh ta rõ ràng là – và Rhyme tự nhủ thầm, như thế là khôn ngoan – đã suy nghĩ lại.

“Chúng ta bắt tay vào việc nào, Ben”, Rhyme nói. Anh lăn xe đến chỗ chiếc bàn đặt các ống nghiệm thử tỷ trọng. “Bây giờ thì hãy lắng nghe cho cẩn thận này. Dụng cụ của một nhà hình sự học cũng giống như vũ khí của một sĩ quan tác chiến vậy. Chúng phải được gói ghém và bảo quản đúng cách. Cậu đối xử với chúng như thể tính mạng một người nào đó sẽ phụ thuộc vào chúng vì, tin tôi đi, sẽ đúng là như thế đấy. Cậu có nghe không đấy, Ben?”

“Tôi đang nghe đây ạ.”

CHƯƠNG MƯỜI TÁM

Khu tạm giam của Tanner’s Corner cách văn phòng cảnh sát trường hai khối phố dài.

Sachs và Bell bước dọc theo vỉa hè nóng bỏng để đến đấy. Hai gã say rượu ốm yếu họ trông thấy khi mới tới vẫn còn ở khu trung tâm, ngồi trên chiếc ghế băng, câm lặng. Một phụ nữ gầy giơ xương, tóc chải ôm sát lấy đầu, đỗ chiếc Mercedes vào dãy đỗ xe trống không, trèo ra khỏi xe và bước vào tiệm làm móng. Chiếc xe hào nhoáng xem chừng hoàn toàn lạc lõng trong thị trấn nhỏ này. Chẳng còn ai ngoài phố. Sachs để ý thấy dăm bảy cơ sở kinh doanh từng hoạt động. Một trong số đó từng là cửa hiệu bán đồ chơi. Một manơcanh trẻ con mặc bộ đồ nỉ đã bị ánh nắng làm cho bạc màu nằm trong khung cửa sổ. Cô lại nghĩ, trẻ con ở đâu hết rồi?

Rồi Sachs trông sang bên kia đường và bắt gặp một bộ mặt đang quan sát cô từ căn phòng tối mờ mờ của quán bar Eddie. Cô nheo mắt. “Ba cái gã kia kìa?”, cô hất đầu nói.

Bell nhìn. “Culbeau và các chiến hữu của anh ta ấy à?”

“Vâng. Mấy gã thích gây chuyện. Mấy gã đã lấy khẩu súng tôi đang đeo trên người”, Sachs nói. “Một gã trong số đó. O’Sarian.”

Viên cảnh sát trưởng cau mày. “Sự việc như thế nào rồi?”

“Tôi đã lấy lại”, Sachs trả lời ngắn gọn.

“Chị có muốn tôi đưa anh ta về đồn không?”

“Không. Có điều tôi nghĩ là anh nên biết: mấy gã khó chịu vì bị tuột mất phần thưởng. Tuy nhiên, nếu anh hỏi tôi, tôi sẽ nói rằng còn hơn thế nữa kia. Mấy gã đang tìm cơ hội tấn công thằng nhãi.”

“Bọn họ và tất cả những người còn lại của thị trấn.”

Sachs nói: “Nhưng tất cả những người còn lại của thị trấn không vác những khẩu lúng đi nạp đạn đi lung tung.”

Bell tủm tỉm cười. “Ờ, dù sau thì cũng không phải tất cả những người còn lại.”

“Tôi cũng hơi tò mò muốn biết làm sao mà mấy gã tình cờ mò đến được chỗ cối xay.”

Viên cảnh sát trưởng suy nghĩ một lát. “Chị cho là Mason?”

“Vâng”, Sachs đáp.

“Giá mà tuần này anh ta đi nghỉ. Nhưng chẳng mong hòng gì được chuyện đó. Chà, chúng ta tới nơi rồi. Không giống một nhà tù lắm. Nhưng nó làm việc hiệu quả đấy.”

Họ bước vào tòa nhà một tầng xây bằng những khối bê tông. Chiếc máy điều hòa nhiệt độ kêu ì ì giữ cho căn phòng mát mẻ dễ chịu. Bell bảo Sachs bỏ súng vào két sắt. Anh ta cũng làm thế và họ bước vào phòng thẩm vấn. Anh ta đóng cánh cửa lại.

Mặc bộ đồ nỉ màu xanh da trời được phát, Garrett Hanlon ngồi bên chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp, đối diện với Jesse Corn. Viên cảnh sát mỉm cười chào Sachs và cô đáp lại bằng nụ cười dè dặt hơn. Rồi cô nhìn gã trai và lại bị ấn tượng vì gã trông mới buồn bã, tuyệt vọng làm sao.

Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi!

Trên mặt và cánh tay Garrett có những vết lằn mà lúc trước chưa có. Sachs hỏi: “Da dẻ cậu bị làm sao vậy?”.

Garrett nhìn xuống cánh tay và ngượng ngập gãi gãi. “Do lá sồi độc”, gã lẩm bẩm.

Bell nói giọng tử tế: “Cậu đã nghe các quyền của cậu rồi, phải không? Cảnh sát Kerr đã đọc cậu nghe chưa?”

“Rồi.”

“Và cậu hiểu các quyền đó?”

“Tôi nghĩ thế.”

“Luật sư đang trên đường tới đây. Ông Fredericks. Ông ấy vừa rời khỏi một cuộc họp ở Elizabeth City và ông ấy sẽ sớm có mặt. Cậu không phải nói gì cho tới lúc ông ấy tới. Cậu hiểu điều ấy chứ?”

Gã trai gật đầu.

Sachs liếc nhìn tấm gương một chiều. Băn khoăn tự hỏi ai đang ở phía bên kia của tấm gương, điểu khiển máy quay video.

“Nhưng chúng tôi hy vọng cậu sẽ trò chuyện, Garrett”, Bell tiếp tục. “Chúng tôi muốn hỏi cậu một số việc thực sự quan trọng. Thứ nhất, có đúng như thế không? Mary Beth vẫn còn sống?”

“Chắc chắn cô ấy vẫn còn sống.”

“Cậu đã cưỡng hiếp cô ấy?”

“Nói chung, tôi không bao giờ làm cái việc đó”, gã trai trả lời, trong khoảnh khắc vẻ thống thiết nhường chỗ cho vẻ phẫn nộ.

“Nhưng cậu đã bắt cóc cô ấy”, Bell nói.

“Không hẳn.”

Không hẳn?”

“Cô ấy, nói chung, không hiểu rằng Bến tàu kênh Nước đen là chốn nguy hiểm. Tôi bắt buộc phải đưa cô ấy đi, nếu không cô ấy sẽ không an toàn. Vậy thôi. Tôi đã cứu cô ấy. Nói chung, đôi khi mình phải bắt buộc một người nào đó làm những việc mà người ta không muốn. Vì lợi ích của chính bản thân người ta. Và rồi thì ông biết đấy, người ta sẽ hiểu.”

“Cô ấy đang ở chỗ nào đó gần bãi biển, đúng không? Khu Bờ Ngoài, đúng không?”

Nghe điều này, Garrett chớp mắt, cặp mắt đỏ ké nhíu lại. Gã nhận ra rằng họ đã tìm thấy tấm bản đồ và đã trao đổi với Lydia. Gã nhìn xuống mặt bàn gỗ ép. Không trả lời gì cả.

“Chính xác thì cô ấy ở đâu, Garrett?”

“Tôi không nói cho ông được.”

“Con trai, cậu đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Cậu đang phải đối diện với tội giết người đấy.”

“Tôi không giết Billy.”

“Làm sao cậu biết tôi đang định nói tới Billy?”, Bell hỏi ngay. Jesse Corn nhướn một bên lông mày với Sachs, khâm phục sự nhanh trí của sếp mình.

Garrett búng móng tay. “Cả thế giới biết Billy bị giết.” Ánh mắt láo liên của gã đảo xung quanh căn phòng, liên tục dừng lại ở Amelia Sachs. Cô chỉ chịu đựng được ánh mắt van nài này một lát rồi phải nhìn đi chỗ khác.

“Chúng tôi có dấu vân tay của cậu trên chiếc xẻng đã giết chết Billy.”

“Chiếc xẻng? Cái đã giết chết Billy ấy à?”

“Phải.”

Garrett dường như hình dung lại việc đã xảy ra. “Tôi nhớ đã nhìn thấy nó nằm dưới đất. Tôi nghĩ có lẽ là tôi đã cầm nó lên.”

“Tại sao?”

“Tôi không biết. Lúc ấy tôi không nghĩ gì cả. Tôi cảm thấy thật đáng sợ. Khi nhìn thấy Billy nằm đó, nói chung, toàn máu là máu.”

“Ờ, cậu có biết ai đã giết Billy không?”

“Gã đàn ông này. Mary Beth bảo tôi rằng cô ấy, nói chung, đang thực hiện một dự án cho nhà trường ở đó, bên bờ sông, và Billy dừng lại nói chuyện với cô ấy. Rồi gã đàn ông này xuất hiện. Gã đã bám theo Billy và bọn họ bắt đầu cãi vã và choảng nhau. Gã này chộp chiếc xẻng đập chết Billy. Rồi tôi đến và gã bỏ chạy.”

Tác giả: