Nguồn cội – Dan Brown

Siegel lắng nghe đầy hoang mang trong khi Winston phác thảo kế hoạch của mình.

“Những gì anh đang gợi ý không thể làm được!” Siegel tranh luận.

“Ngược lại,” Winston nói. “hoàn toàn khả thi. Cú thúc của mỗi động cơ là hơn sáu nghìn tám trăm kilogram, và phần mũi nhọn của các anh được thiết kế để chịu được hơn một nghìn một trăm hai mươi kilomet…”

“Tôi không lo ngại về yếu tố vật lý,” Siegel gắt. “Tôi lo về vấn đề pháp lý và về chuyện giấy phép phi công của tôi sẽ bị thu hồi!”

“Tôi hiểu chuyện đó, anh Siegel,” Winston thản nhiên đáp lại. “Nhưng hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha đang gặp nguy hiểm chết người ngay lúc này. Hành động của anh ở đây sẽ giúp cứu mạng cô ấy. Tin tôi đi, khi sự thật hé lộ, anh sẽ không nhận được lời khiển trách đâu, mà anh sẽ nhận được huân chương hoàng gia từ đức vua đấy.”

Đứng trong đám cỏ sâu lút, Langdon và Ambra ngước nhìn lên hàng rào an ninh cao ngất được chiếu sáng trong ánh đèn pha của chiếc máy bay.

Theo đề xuất của Winston, họ bước lùi khỏi hàng rào vừa hay động cơ chiếc máy bay gầm lên và máy bay bắt đầu lăn tới trước. Thay vì theo khúc quanh của đường lăn, chiếc máy bay tiếp tục tiến thẳng về phía họ, vượt qua vạch sơn an toàn và lăn hẳn lên phần đường đệm trải nhựa. Nó chậm lại lăn từ từ, nhích dần nhích dần tới hàng rào.

Lúc này, Langdon có thể thấy phần mũi nhọn của máy bay gióng thẳng với một trong những cột chống thép nặng trịch của hàng rào. Khi phần mũi nhọn chắc nịch ấy nối với cây cột dọc, động cơ máy bay hơi rồ lên một chút.

Langdon đinh ninh phải giằng dai thêm một chút, nhưng rõ ràng hai động cơ Rolls-Royce và chiếc máy bay nặng bốn mươi tấn vượt xa sức chống chịu của cột hàng rào này.

Kèm theo tiếng kim loại rít lên, cây cột nghiêng về phía họ, lôi theo cả một khối nhựa đường lớn bám chặt lấy chân nó hệt như khối rễ của một cái cây bị quật ngã.

Langdon chạy lại và nắm lấy phần hàng rào đổ, kéo nó xuống đủ thấp để ông và Ambra có thể vượt qua. Lúc họ bước lên phần đường nhựa, cầu thang máy bay được mở ra và một phi công mặc đồng phục vẫy họ lên khoang.

Ambra mỉm cười nhìn Langdon. “Vẫn còn nghi ngờ Winston à?”

Langdon không còn lời nào nữa.

Khi họ khẩn trương leo lên cầu thang và chui vào khoang trong, Langdon nghe thấy phi công thứ hai trong buồng lái đang nói với đài kiểm soát.

“Vâng, đài kiểm soát, tôi đã nghe,” người phi công nói, “nhưng radar mặt đất của các anh chắc đã xác định sai. Chúng tôi chưa rời đường nối. Tôi nhắc lại, chúng tôi vẫn ở ngay trên đường lăn. Hiện giờ đèn cảnh báo của chúng tôi đã tắt và chúng tôi sẵn sàng cất cánh.”

Cơ phó đóng mạnh cửa khi cơ trưởng cho động cơ Gulfstream đảo ngược, đưa máy bay nhích lùi lại, tách khỏi chỗ hàng rào đã bị võng xuống.

Sau đó, chiếc máy bay bắt đầu cua rộng vào đường băng.

Ngồi đối diện Ambra, Robert Langdon nhắm mắt lại một lúc và thở phào. Động cơ gầm to bên ngoài và ông cảm nhận được áp suất tăng tốc khi máy bay lao vun vút dọc đường băng.

Chỉ vài giây sau, chiếc máy bay lao vút lên bầu trời và chao nghiêng gấp về phía đông nam, xuyên qua màn đêm hướng về Barcelona.

CHƯƠNG 40

Giáo trưởng Yehuda Köves lao ra khỏi phòng làm việc của mình, băng qua vườn và lách ra khỏi cửa trước nhà mình, theo bậc thang xuống hè.

Mình không còn an toàn ở nhà nữa, vị giáo trưởng tự nhủ, tim ông đập thình thịch. Mình phải tới giáo đường.

Giáo đường phố Dohány không chỉ là thánh đường cả đời của Köves, nó còn là một pháo đài thực sự. Những chướng ngại vật, hàng rào thép gai, và lực lượng bảo vệ 24/24 của giáo đường gợi nhớ lại rất rõ lịch sử bài Do Thái kéo dài của Budapest. Tối nay, Köves cảm thấy mừng vì có giữ chìa khóa của một tòa thành trì như vậy.

Giáo đường chỉ cách nhà ông mười lăm phút – một quãng đi bộ bình yên Köves vẫn thực hiện hằng ngày – nhưng tối nay, khi ông bắt đầu đi dọc theo Phố Kossuth Lajos, ông chỉ cảm thấy sợ hãi. Cúi thấp đầu, Köves cẩn trọng nhìn khắp một lượt những khoảng tối trước mặt khi ông bắt đầu hành trình của mình.

Gần như lập tức ông nhìn thấy gì đó khiến ông lo lắng.

Một bóng đen ngồi thu lu trên một chiếc ghế băng bên kia phố – một người đàn ông vóc dáng vạm vỡ mặc quần bò xanh và đội chiếc mũ bóng chày – hững hờ bấm chiếc điện thoại thông minh của mình, gương mặt râu ria của anh ta được chiếu sáng rõ nhờ quầng sáng của chiếc điện thoại.

Anh ta không phải người khu vực này, Köves biết vậy, và rảo bước.

Người đàn ông đội mũ bóng chày ngước lên, nhìn vị giáo trưởng một lúc, sau đó quay lại chiếc điện thoại của mình. Köves rảo chân. Sau một dãy nhà, ông lo lắng liếc lại phía sau mình. Ông thấy hoang mang khi người đàn ông đội mũ kia không còn trên ghế băng nữa. Gã băng qua phố và đang đi trên vỉa hè ngay sau Köves.

Hắn bám theo ta. Chân vị giáo trưởng già nua bước nhanh hơn và hơi thở của ông gấp gáp. Ông tự hỏi việc rời khỏi nhà của mình có phải là một sai lầm nghiêm trọng không.

Valdespino nhắc mình ở trong nhà! Mình đã quyết định tin ai vậy?

Köves đã định đợi người của Valdespino tới và hộ tống ông tới Madrid, nhưng cuộc điện thoại đã làm thay đổi mọi thứ. Những hạt giống ngờ vực u tối đang nảy mầm rất nhanh.

Người phụ nữ trên điện thoại đã cảnh báo ông: Giám mục đang cử người tới không phải để đưa ông đi, mà là loại bỏ ông – giống như ông ta đã loại bỏ Syed al-Fadl. Sau đó, cô ấy đưa ra bằng chứng thuyết phục đến mức Köves phát hoảng và bỏ chạy.

Giờ đây, khi rảo bước trên hè, Köves sợ ông có thể không tới được giáo đường an toàn. Gã đàn ông đội mũ vẫn đằng sau ông, theo Köves ở khoảng cách khoảng năm mươi mét.

Có tiếng rít chói tai xé qua không khí ban đêm và Köves nhảy dựng lên. Ông thở phào nhận ra tiếng động đó là của một chiếc xe buýt thành phố phanh lại một trạm dừng ngay phía cuối dãy nhà. Köves cảm thấy như thể chính Chúa đã gửi chiếc xe tới nên ông rảo chân về phía nó và len lên xe. Chiếc xe buýt chật cứng toàn sinh viên đại học và hai người trong số họ lịch sự nhường chỗ cho Köves ở phía trước.

Köszönöm,” vị giáo trưởng thở hổn hển không ra hơi. Cảm ơn.

Thế nhưng, chiếc xe buýt chưa kịp lăn bánh thì gã đàn ông mặc quần bò đội mũ đã chạy hết tốc lực theo sau xe và vừa kịp lên được xe.

Köves cứng người, nhưng gã đàn ông đã đi lướt qua ông mà chẳng thèm nhìn rồi chiếm một chỗ ở phía sau. Nhìn hình ảnh phản chiếu qua kính chắn gió, vị giáo trưởng thấy gã đã quay lại với chiếc điện thoại của mình, rõ ràng đang mải mê với một trò chơi video gì đó.

Đừng hoang tưởng nào, Yehuda, ông tự mắng mình. Anh ta đâu có quan tâm đến ngươi.

Khi chiếc xe buýt đến trạm dừng Phố Dohány, Köves ngong ngóng nhìn những ngọn tháp của giáo đường chỉ cách đó vài dãy nhà, nhưng ông không dám rời khỏi sự an toàn trên chiếc xe buýt chật cứng.

Nếu ta xuống xe, và người kia theo ta…

Köves vẫn ngồi yên trên ghế, quyết định rằng có lẽ ông an toàn hơn khi ở giữa đám đông. Ta có thể đi xe buýt một lúc để lấy lại nhịp thở, ông nghĩ, mặc dù giờ ông ao ước giá như đã đi vệ sinh trước khi đột ngột rời khỏi nhà.

Nhưng chỉ một lát sau, khi chiếc xe rời khỏi Phố Dohány, Giáo trưởng Köves mới nhận ra sai lầm kinh khủng trong kế hoạch của mình.

Hôm nay là tối thứ Bảy, và hành khách đều là lũ trẻ.

Giờ Köves nhận ra rằng tất cả mọi người trên chiếc xe này gần như đều chắc chắn sẽ xuống ở cùng một chỗ – một trạm dừng nữa, ngay trung tâm khu Do Thái của Budapest.

Sau Thế chiến thứ II, khu vực này bị bỏ mặc trong đổ nát, nhưng những công trình đổ nát giờ lại là trung tâm của một trong những khung cảnh các quán bar sôi động nhất châu Âu – “những quán bar đổ nát” nổi tiếng – những hộp đêm hợp thời ngay trong những tòa nhà đổ nát. Vào dịp cuối tuần, từng tốp sinh viên và khách du lịch tụ tập ở đây để tiệc tùng trong bộ khung đầy vết bom đạn của những nhà kho phủ kín hình vẽ graffiti và các tòa nhà cũ kỹ, giờ đây được trang bị hệ thống âm thanh hiện đại nhất, đèn chiếu nhiều màu và nghệ thuật chiết trung.

Quả nhiên, khi chiếc xe phanh lại ở trạm dừng kế tiếp, tất cả sinh viên lũ lượt kéo xuống. Gã đàn ông đội mũ vẫn ngồi ở phía sau, vẫn mải mê với chiếc điện thoại. Bản năng mách bảo Köves ra khỏi xe nhanh nhất có thể, và vì thế ông gượng đứng lên, khẩn trương theo lối đi giữa hai hàng ghế, và bước xuống giữa đám đông sinh viên trên phố.

Chiếc xe rồ máy để rời đi, nhưng rồi đột ngột dừng lại, cửa xe rít mở cho hành khách cuối cùng ra – chính là gã đàn ông đội mũ. Köves cảm thấy mạch đập của mình tăng vọt lần nữa, nhưng gã đàn ông không hề để mắt đến Köves dù chỉ một lần. Thay vào đó, gã xoay lưng lại phía đám đông và bước nhanh theo hướng ngược lại, vừa đi vừa gọi điện.

Hãy thôi tưởng tượng mọi việc nào, Köves tự nhủ, cố gắng thở bình tĩnh.

Chiếc xe buýt rời đi và đám đông sinh viên ngay lập tức bắt đầu di chuyển về phía các quán bar. Để an toàn, Giáo trưởng Köves đi cùng với họ càng lâu càng tốt, thậm chí còn rẽ trái bất ngờ và đi bộ ngược lại phía giáo đường.

Chỉ còn vài dãy nhà nữa, ông tự nhủ, bỏ qua cảm giác nặng trịch ở đôi chân và áp suất ngày càng tăng trong bàng quang.

Các quán bar đổ nát đều đông nghẹt, khách khứa náo nhiệt của họ tràn cả ra đường. Xung quanh Köves, tiếng nhạc điện tử rộn ràng, mùi bia tỏa lan trong không khí, quyện với mùi hương ngòn ngọt của xì gà Sopianae và bánh nướng bỏ lò Kürtőskalács.

Lúc đến gần góc phố, Köves vẫn có cảm giác kỳ lạ rằng mình đang bị theo dõi. Ông đi chậm lại và thêm một lần liếc mắt về phía sau. Ơn Chúa, gã đàn ông mặc quần bò đội mũ không thấy ở đâu cả.

Trong một lối vào tối om, cái bóng lom khom vẫn bất động suốt mười giây trước khi cẩn thận nhìn qua bóng tối và đi về phía góc phố.

Khéo lắm lão già, gã nghĩ thầm và biết mình vừa kịp hụp xuống để tránh bị nhìn thấy.

Gã đàn ông kiểm tra lại ống tiêm trong túi. Sau đó, gã bước ra khỏi bóng tối, chỉnh lại chiếc mũ bóng chày và hối hả bám theo mục tiêu của mình.

Tác giả: