Nguồn cội – Dan Brown

Hầu hết các tán dù giờ là những hạng mục kiến trúc vững chắc, nhưng Sagrada Família lại lựa chọn chất liệu vải, trong trường hợp này là một cái tán hình chiếc ô như lơ lửng một cách kỳ ảo trong không trung phía trên bàn thờ. Bên dưới lớp vải, được treo bằng những sợi dây như một chiếc dù, là hình Chúa Jesus trên thập giá.

Jesus nhảy dù, Langdon từng nghe gọi như vậy. Giờ nhìn thấy lại, ông không ngạc nhiên khi nó trở thành một trong những chi tiết gây tranh cãi nhất của nhà thờ.

Khi Đức cha Beña hướng dẫn họ tiến vào khoảng tối càng lúc càng đặc quánh lại, Langdon gặp khó khăn vì chẳng nhìn thấy gì hết. Díaz móc một cây đèn bút ra và soi sáng phần nền nhà lát gạch bên dưới chân mọi người. Dẫn bước đi về phía lối vào hầm mộ, giờ Langdon nhận thấy phía trên ông cái bóng nhờn nhợt của một hình trụ cao ngất ngưởng vươn lên hàng chục mét theo bức tường bên trong nhà thờ.

Đường xoắn ốc Sagrada khét tiếng, ông nhận ra vậy, chưa bao giờ dám leo lên đó.

Cái đường ống gồm những bậc cầu thang xoáy tròn cao đến chóng mặt của Sagrada Família từng xuất hiện trong danh sách “hai mươi cầu thang nguy hiểm nhất thế giới” của National Geographic, giành vị trí thứ ba, chỉ sau những bậc thang chênh vênh của Đền Angkor Wat ở Campuchia và các bậc đá rêu phong nơi vách đá tại thác nước Vạc Quỷ ở Ecuador.

Langdon nhìn vài bậc cầu thang đầu tiên, chạy xoắn ốc lên trên và biến mất trong bóng tối.

“Lối vào hầm mộ ngay phía trước,” Đức cha Beña nói, ra hiệu về phía những bậc thang dẫn tới một khoảng trống tối tăm bên trái bàn thờ. Khi họ dấn bước tới trước, Langdon nhận ra một quầng sáng vàng nhàn nhạt dường như tỏa ra từ một cái lỗ trên sàn.

Hầm mộ.

Cả nhóm đến cửa một cầu thang uốn cong nhẹ nhàng, trang nhã.

“Hai vị,” Ambra nói với các cận vệ. “Cả hai anh ở lại đây. Chúng tôi sẽ quay lại ngay.”

Fonseca có vẻ khó chịu nhưng không nói gì.

Sau đó Ambra, Đức cha Beña và Langdon bắt đầu đi xuống phía có ánh sáng.

Đặc vụ Díaz cảm thấy mừng vì có được giây phút thanh bình khi anh nhìn ba bóng người biến mất bên dưới lối cầu thang uốn lượn. Sự căng thẳng ngày càng tăng giữa Ambra Vidal và Đặc vụ Fonseca đang trở nên phiền phức.

Các đặc vụ Cận vệ không quen với những lời hăm dọa sa thải từ những người họ bảo vệ – chỉ từ Tư lệnh Garza mà thôi.

Díaz vẫn cảm thấy hoang mang trước việc Garza bị bắt giữ. Thật lạ, Fonseca lại từ chối cho anh biết đích xác ai hạ lệnh bắt giữ này hay khơi mào câu chuyện bắt cóc giả mạo.

“Tình hình rất phức tạp,” Fonseca nói vậy. “Và để bảo vệ chính cậu, tốt hơn cả cậu chẳng nên biết làm gì.”

Vậy thì ai ra lệnh? Díaz băn khoăn. Hoàng tử chăng? Dường như rất đáng ngờ là Julián lại mạo hiểm sự an toàn của Ambra bằng việc lan truyền một câu chuyện bắt cóc không có thật. Hay là Valdespino? Díaz không dám chắc liệu Giám mục có tầm ảnh hưởng đó không.

“Tôi sẽ quay lại ngay,” Fonseca càu nhàu, và bỏ đi, nói rằng anh ta cần tìm nhà vệ sinh. Khi Fonseca lẩn vào bóng tối, Díaz nhìn thấy anh ta móc điện thoại ra, bấm một cuộc gọi và bắt đầu một cuộc trò chuyện âm thầm.

Díaz một mình đợi trong bóng tối của điện thờ, càng lúc càng cảm thấy không thoải mái với cách hành xử bí ẩn của Fonseca.

CHƯƠNG 70

Cầu thang xuống hầm mộ chạy xoắn ốc sâu xuống đất đến ba tầng nhà, uốn cong theo một vòng cung rộng và thanh nhã, trước khi dẫn Langdon, Ambra và Đức cha Beña vào gian buồng dưới lòng đất.

Một trong những hầm mộ rộng nhất châu Âu, Langdon nghĩ, thấy ngưỡng mộ cái không gian hình tròn rộng lớn này. Chính xác như ông còn nhớ, lăng mộ ngầm dưới đất của Sagrada Família có một nhà tròn cao và chứa đủ số ghế cho hàng trăm tín đồ. Những cây đèn dầu bằng vàng được bố trí cách đều xung quanh chu vi gian phòng soi sáng phần sàn tranh gốm ghép thành hình các cây leo, rễ, cành, lá và những hình ảnh khác từ thiên nhiên.

Một hầm mộ là không gian “được giấu kín” theo đúng nghĩa, và Langdon thấy gần như không thể hiểu được tại sao Gaudí lại che giấu thành công một căn phòng lớn như thế này bên dưới nhà thờ. Nơi này chẳng có gì giống “hầm mộ nghiêng” của Gaudí ở Colònia Güell, không gian này là một gian buồng theo trường phái tân Gothic khắc khổ với những cây cột tạo hình lá, những vòm cung nhọn và những mái vòm được tô điểm. Không khí tĩnh lặng như chết và thoang thoảng mùi trầm.

Dưới chân cầu thang, một hốc tường sâu chạy dài về bên trái. Phần nền bằng sa thạch nhàn nhạt của nó đỡ một khối màu xám khiêm nhường, đặt nằm ngang, có những ngọn đèn bao quanh.

Là ông ấy, Langdon nhận ra vậy, mắt đọc dòng chữ khắc.

ANTONIUS GAUDÍ

Lúc Langdon đưa mắt nhìn một lượt nơi an nghỉ của Gaudí, ông lại cảm nhận được nỗi đau mất Edmond. Ông ngước mắt nhìn bức tượng Đức mẹ Đồng trinh Mary phía trên mộ, có phần bệ mang một biểu tượng không mấy quen thuộc.

Gì thế này?

Langdon nhìn cái biểu tượng lạ lùng.
Biểu tượng chữ cái Hy Lạp Lambda

Rất hiếm khi Langdon nhìn thấy một biểu tượng mà ông không tài nào nhận ra. Trong trường hợp này, cái biểu tượng là chữ cái Hy Lạp lambda… mà, theo kinh nghiệm của ông, không xuất hiện trong hệ thống biểu tượng Thiên Chúa giáo. Lambda là một biểu tượng khoa học, rất quen thuộc trong các lĩnh vực tiến hóa, vật lý phân tử và vũ trụ học. Kỳ lạ hơn nữa, nhô lên trời từ đỉnh của cái chữ lambda đặc biệt này là một thập giá Thiên Chúa giáo.

Tôn giáo được khoa học ủng hộ chăng? Langdon chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.

“Thấy khó hiểu với cái biểu tượng phải không?” Đức cha Beña hỏi, đến bên cạnh Langdon. “Anh không phải người duy nhất đâu. Nhiều người đã hỏi về nó. Nó chẳng là gì hơn một cách diễn giải độc đáo của chủ nghĩa hiện đại cho cây thập giá trên đỉnh núi thôi mà.”

Langdon nhích về phía trước, giờ nhìn thấy những ngôi sao mạ vàng mờ mờ đi kèm với biểu tượng.
Những ngôi sao mạ vàng xuất hiện trên biểu tượng chữ cái Hy Lạp Lambda

Ba ngôi sao ở vị trí đó, Langdon nghĩ thầm, nhận ra ngay lập tức. Thập giá trên đỉnh Núi Carmel. “Đó là thập giá Carmelite.”

Chính xác. Xác Gaudí nằm bên dưới Đức Trinh nữ Mary Diễm phúc Núi Carmel.”

“Gaudí là một Carmelite* ư?” Langdon thấy khó hình dung được vị kiến trúc sư theo chủ nghĩa hiện đại lại gia nhập cách diễn giải nghiêm ngặt về Công giáo của huynh đoàn thế kỷ XII này. (Carmelite là Dòng Anh em Đức Trinh nữ Mary Diễm phúc núi Cát Minh, thường gọi tắt là “Dòng Cát Minh” hay “dòng Kín”, là một dòng tu Công giáo, được cho là do Thánh Albert sáng lập từ thế kỷ thứ XII trên núi Carmel (Israel). Dòng tu này chủ trương sống đời sống trung thành với Đức Chúa, qua lời cam kết kiếm tìm Thiên Chúa hằng sống qua đời sống chiêm nghiệm và cầu nguyện đời sống huynh đệ cộng đoàn và đời sống phục vụ tha nhân.)

“Chắc chắn là không rồi,” Đức cha Beña cười trả lời. “Nhưng những người chăm sóc ông ấy thì đúng. Một nhóm các nữ tu Carmelite sống cùng với Gaudí và chăm sóc ông ấy suốt những năm cuối đời. Họ tin ông ấy cũng sẽ biết ơn việc được thăm viếng khi đã tạ thế và họ tạo ra món quà hào phóng của nhà nguyện này.”

“Rất sâu sắc,” Langdon nói, tự trách mình đã hiểu sai một biểu tượng vô hại như vậy. Rõ ràng, tất cả những thuyết âm mưu lưu hành tối nay đều khiến Langdon bắt đầu nghĩ ra những hồn ma từ không đâu.

“Có phải đó là cuốn sách của Edmond không nhỉ?” Ambra đột nhiên lên tiếng.

Cả hai người đàn ông cùng quay lại nhìn nàng ra hiệu về khoảng tối bên phải mộ Gaudí.

“Phải rồi,” Đức cha Beña trả lời. “Ta rất tiếc là ánh sáng hơi kém.”

Ambra vội vã đi về phía hòm trưng bày, Langdon theo sau, nhận thấy rằng cuốn sách đã được chuyển tới một khu vực tối tăm của hầm mộ, bị khuất bóng bởi những cây cột chống đồ sộ bên phải mộ Gaudí.

“Bình thường chúng ta bày các cuốn sách thông tin mỏng ở đó,” Đức cha Beña nói, “nhưng ta chuyển tất cả đi chỗ khác để nhường chỗ cho cuốn sách của Kirsch. Dường như chẳng ai chú ý cả.”

Langdon nhanh chóng nhập bọn với Ambra bên một chiếc hòm giống chiếc tủ cốc có phần nóc bằng kính đặt nghiêng. Bên trong, đặt mở sẵn đến trang 163 và không dễ nhìn lắm trong thứ ánh sáng tù mù, là bản sách Tuyển tập Blake rất lớn được đóng cẩn thận.

Đúng như Đức cha Beña đã thông báo với họ, trang sách được đề cập không phải là một bài thơ, đúng hơn là một hình minh họa của Blake. Langdon cứ thắc mắc không biết sẽ thấy hình ảnh nào của Blake minh họa Chúa, nhưng chắc chắn không phải là hình này.

Bức Thời xa xưa, Langdon nghĩ, nheo mắt nhìn bức tranh khắc màu nước nổi tiếng năm 1794 của Blake qua bóng tối.

Langdon rất ngạc nhiên vì Đức cha Beña lại gọi đây là một “hình ảnh của Chúa”. Phải thừa nhận, hình minh họa này có vẻ mô tả Đức Chúa nguyên mẫu – một ông già nhăn nheo, có râu với mái tóc bạc trắng, ngồi chênh vênh trên mây và với tay từ trên trời xuống – nhưng chỉ cần Đức cha Beña nghiên cứu thêm một chút nó sẽ tiết lộ điều hoàn toàn khác. Thực tế nhân vật này không phải là Đức Chúa của Thiên Chúa giáo mà đúng hơn là một vị thần tên gọi Urizen – vị thần được nghĩ ra từ trí tưởng tượng phong phú của chính Blake – được mô tả ở đây là đang đo các khoảng trời bằng một chiếc com pa hình học khổng lồ, thể hiện sự kính trọng đối với các quy luật khoa học của vũ trụ.

Tác phẩm này có phong cách vị lai chủ nghĩa đến mức, nhiều thế kỷ sau, nhà vật lý vô thần nổi tiếng Stephen Hawking chọn nó làm áo bìa cho cuốn sách Chúa tạo ra các số nguyên của mình. Thêm vào đó, đấng tạo hóa không chịu ảnh hưởng thời gian của Blake còn nhìn xuống từ Trung tâm Rockefeller tại Thành phố New York, nơi nhà hình học cổ xưa đăm đăm nhìn xuống từ một bức điêu khắc phong cách Art Deco có tiêu đề Trí tuệ, Ánh sáng và Âm thanh.

Langdon nhìn cuốn sách của Blake, lại băn khoăn không rõ tại sao Edmond tốn công sức như vậy để đem trưng bày nó ở đây. Phải chăng là sự hận thù thuần túy? Một cái tát vào mặt Nhà thờ Thiên Chúa giáo?

Tác giả: