Nguồn cội – Dan Brown

Điện thoại thông minh của Edmond bắt đầu bật một đoạn phim cảnh những người biểu tình giận dữ ở các cổng hoàng cung. Một người còn mang một biểu ngữ tiếng Anh ghi: PONTIUS PILATE* ĐÃ GIẾT HẠI NHÀ TIÊN TRI CỦA CHÚNG TA – CÁC NGƯỜI SÁT HẠI NGƯỜI CỦA CHÚNG TA! (PONTIUS PILATE là tổng trấn thứ năm của tỉnh Judaea thuộc La Mã từ năm 26 tới năm 36 sau Công nguyên dưới thời Hoàng đế Tiberius, và nổi tiếng với phiên tòa xét xử và thi hành việc đóng đinh vào thập giá Chúa Jesus.)

Những người khác mang theo các tấm ga trải giường được xịt sơn khẩu hiệu tranh đấu với một từ duy nhất – ¡APOSTASIA! – đi kèm một biểu trưng giờ đang được in bằng giấy nến với mức độ ngày càng nhiều trên các vỉa hè của Madrid.

Apostasy đã trở thành tiếng hô mít tinh thông dụng với giới trẻ tự do Tây Ban Nha. Từ bỏ Giáo hội!

“Julián đã có tuyên bố chưa?” Ambra hỏi.

“Đó là một vấn đề đấy,” Winston đáp. “Không một lời nào từ Julián, cũng chẳng thấy giám mục hay bất kỳ ai trong hoàng cung. Sự im lặng tiếp tục thế này đã khiến mọi người nghi ngờ. Các thuyết âm mưu đang tràn ngập, và báo chí quốc gia giờ bắt đầu đặt câu hỏi xem ở đâu, và tại sao không công khai bình luận gì về vụ khủng hoảng này?”

“Tôi ư?!” Ambra thấy kinh hãi trước ý nghĩ đó.

“Cô đã chứng kiến vụ giết người. Cô là hoàng hậu tương lai và mối tình trọn đời của Hoàng tử Julián. Công chúng muốn nghe cô nói rằng cô chắc chắn Julián không hề liên quan.”

Từ tận đáy lòng, Ambra biết rằng Julián có thể không hề biết đến vụ sát hại Edmond; khi nàng nghĩ lại thời gian tìm hiểu nhau của họ, nàng nhớ đến một người đàn ông dịu dàng và chân thành – phải thừa nhận là ngây thơ và lãng mạn một cách bốc đồng – nhưng chắc chắn không phải là một kẻ giết người.

“Những câu hỏi tương tự giờ cũng đặt ra với Giáo sư Langdon,” Winston nói. “Truyền thông bắt đầu đặt câu hỏi tại sao giáo sư lại biến mất không một lời bình luận, đặc biệt sau khi xuất hiện rất nổi bật trong màn thuyết trình của Edmond. Một vài blog chuyên về thuyết âm mưu đang cho rằng sự biến mất của ông ấy thực tế có thể liên quan đến sự dính líu của ông ấy trong vụ sát hại Kirsch.”

“Nhưng đó là chuyện điên khùng!”

“Chủ đề này lại rất thu hút. Giả định xuất phát từ việc trước đây Langdon có tìm kiếm Chén Thánh và huyết mạch của Đức Chúa. Rõ ràng, những hậu duệ dòng Salic của Đức Chúa có những quan hệ lịch sử với phong trào Carlist, và hình xăm của sát thủ…”

“Thôi đi,” Ambra ngắt lời. “Chuyện này rất vô lý.”

“Nhưng còn có những người khác suy luận rằng Langdon biến mất vì bản thân ông ấy trở thành một mục tiêu vào tối nay. Tất cả mọi người đều trở thành thám tử ghế bành. Thế giới có rất nhiều người lúc này đang phối hợp để tìm ra những bí ẩn Edmond đã khám phá… và ai là người muốn ông ấy im lặng.”

Sự chú ý của Ambra bị nhãng đi do tiếng bước chân của Langdon hối hả tiến lại trong hành lang ngoằn ngoèo. Nàng quay lại vừa hay ông xuất hiện ở góc phòng.

“Ambra?” ông gọi, giọng căng thẳng. “Cô có biết rằng Edmond bị bệnh rất nặng không?”

“Bị bệnh?” nàng thảng thốt nói. “Không.”

Langdon kể cho nàng nghe những gì ông phát hiện được trong phòng tắm riêng của Edmond.

Ambra choáng váng.

Ung thư tụy ư? Đó là lý do Edmond xanh xao và gầy như vậy ư?

Thật khó tin, Edmond chưa hề nói một lời về việc bị bệnh. Giờ Ambra hiểu cái đạo lý làm việc như điên của anh trong mấy tháng qua. Edmond biết anh ấy đang hết thời gian.

“Winston,” nàng hỏi. “Anh có biết về tình trạng bệnh của Edmond không?”

“Có,” Winston trả lời không chút do dự. “Đó là chuyện ông ấy giữ rất kín. Ông ấy biết bệnh tình của mình hai mươi hai tháng trước và lập tức thay đổi chế độ ăn uống và bắt đầu làm việc với cường độ tăng lên. Ông ấy cũng bố trí lại không gian áp mái này, nơi ông ấy hít thở không khí bảo tàng và được bảo vệ khỏi bức xạ cực tím. Ông ấy cần sống trong bóng tối càng nhiều càng tốt bởi vì dược phẩm khiến cho ông ấy mẫn cảm với ánh sáng. Edmond tìm cách sống được khá lâu, vượt cả những dự liệu của các bác sĩ. Thế nhưng, gần đây, ông ấy bắt đầu thất bại. Dựa trên bằng chứng thực nghiệm tôi thu thập từ các cơ sở dữ liệu trên toàn thế giới về ung thư tụy, tôi đã phân tích tình trạng xấu đi của Edmond và tính rằng ông ấy còn sống được chín ngày.”

Chín ngày, Ambra nghĩ, trong lòng ngập cảm giác hối lỗi vì đã trêu chọc Edmond về chế độ ăn kiêng và làm việc quá nhiều của anh. Anh ấy bị bệnh; anh ấy chạy đua không mệt mỏi để tạo ra thời khắc quang vinh cuối cùng của mình trước khi thời gian của anh ấy cạn kiệt. Sự hiểu ra đáng buồn này chỉ càng khiến Ambra thêm quyết tâm xác định được bài thơ này và hoàn tất những gì Edmond đã mở đầu.

“Tôi vẫn chưa tìm thấy bất kỳ cuốn thơ nào,” nàng nói với Langdon. “Cho đến giờ, tất cả đều là khoa học.”

“Tôi nghĩ thi sĩ chúng ta đang tìm kiếm có thể là Friedrich Nietzsche,” Langdon nói, kể với nàng về câu trích dẫn được đóng khung phía trên giường của Edmond. “Câu trích dẫn đặc biệt ấy không có bốn mươi bảy mẫu tự, nhưng chắc chắn nó ám chỉ rằng Edmond là một người hâm mộ Nietzsche.”

“Winston,” Ambra nói. “Anh có thể tìm những tác phẩm thơ đã được thu thập của Nietzsche và xác định xem có dòng thơ nào có đúng bốn mươi bảy mẫu tự không?”

“Chắc chắn rồi,” Winston trả lời. “Bản gốc tiếng Đức hay bản dịch tiếng Anh?”

Ambra im lặng, không dám chắc chắn.

“Bắt đầu từ tiếng Anh,” Langdon xen vào. “Edmond có kế hoạch nhập dòng thơ này vào điện thoại của mình và bàn phím của cậu ấy không dễ cho việc nhập bất kỳ chữ cái biến âm hay các chữ Eszett* của tiếng Đức nào.” (Eszett là cách đọc của ß, ký tự thứ 22 trong bảng chữ cái tiếng Đức. ß thường bị nhầm với β (beta), В (đọc như “Vê”, ký tự kirin) và B (ký tự Latin). Tuy nhiên ß không bao giờ đứng đầu câu, còn 3 chữ kia đều có thể đứng đầu câu.)

Ambra gật đầu. Thật thông minh.

“Tôi có kết quả đây,” Winston tuyên bố gần như ngay tức thì. “Tôi tìm được gần ba trăm bài thơ đã dịch, cho kết quả một trăm chín mươi hai dòng thơ có đúng bốn mươi bảy mẫu tự.”

Langdon thở dài. “Nhiều thế ư?”

“Winston,” Ambra giục. “Edmond mô tả câu thơ anh ấy yêu thích như là lời tiên tri… một dự đoán về tương lai… một điều đã thành hiện thực. Anh có thấy bất kỳ câu nào phù họp với mô tả ấy không?”

“Tôi xin lỗi,” Winston đáp. “Tôi chẳng thấy gì ở đây ngụ ý một lời tiên tri cả. Nói về mặt ngôn ngữ, các dòng thơ được xem xét đều trích từ các khổ thơ dài hơn và có vẻ là một phần của những suy nghĩ. Tôi hiển thị cho các vị nhé?”

“Nhiều quá,” Langdon nói. “Chúng ta cần tìm một cuốn sách và hy vọng rằng Edmond đánh dấu dòng thơ yêu thích của mình bằng cách nào đó.”

“Vậy tôi gợi ý các vị khẩn trương lên,” Winston nói. “Xem ra sự hiện diện của quý vị ở đây có thể không còn là một bí mật nữa.”

“Sao anh lại nói vậy?” Langdon gặng hỏi.

“Báo chí địa phương đang đưa tin rằng một chiếc máy bay quân sự vừa hạ cánh xuống Sân bay El Prat ở Barcelona và rằng hai đặc vụ Cận vệ Hoàng gia đã rời máy bay.”

Ở ngoại ô Madrid, Giám mục Valdespino cảm thấy may mắn đã thoát ra khỏi cung điện trước khi những bức tường khép chặt lấy ông. Ngồi chật cứng bên cạnh Hoàng tử Julián ở ghế sau chiếc xe mui kín Opel nhỏ xíu của thầy tu trẻ, Valdespino hy vọng rằng những biện pháp tuyệt vọng lúc này được khởi động đằng sau màn diễn sẽ giúp ông giành lại quyền kiểm soát một buổi tối đang diễn biến chệch hướng quá xa.

“Điền trang của Hoàng tử,” Valdespino ra lệnh cho thầy tu trẻ tuổi khi người này chở họ rời xa khỏi cung điện.

Điền trang của Hoàng tử tọa lạc ở một khu vực thôn quê tách biệt khoảng bốn mươi phút bên ngoài Madrid. Là một biệt phủ hơn là một điền trang, khu nhà này dùng làm tư gia cho người kế vị ngai vàng Tây Ban Nha kể từ giữa thế kỷ XVIII – một địa điểm riêng biệt nơi các cậu bé được sống đúng là mình trước khi bước vào công việc điều hành một quốc gia. Valdespino đã trấn an Julián rằng rút về khu điền trang sẽ an toàn hơn hẳn so với cứ ở lại hoàng cung tối nay.

Trừ phi ta không đưa Julián tới điền trang, vị giám mục biết vậy, mắt liếc Hoàng tử, lúc này đang đăm đăm nhìn ra cửa sổ xe, rõ ràng đang chìm trong suy tưởng.

Valdespino tự hỏi phải chăng Hoàng tử thật sự ngây thơ như vẻ ngoài, hay, giống như cha mình, Julián đã nắm vững kỹ năng chỉ cho thế giới nhìn thấy cái phần bản thân mình muốn thể hiện mà thôi.

CHƯƠNG 54

Garza có cảm giác chiếc còng ở cổ tay xiết chặt một cách không cần thiết.

Mấy gã này rất nghiêm túc, ông nghĩ, vẫn vô cùng bàng hoàng bởi hành động của chính những đặc vụ Cận vệ của mình.

“Có chuyện quái gì vậy?!” Garza gặng hỏi lần nữa khi người của ông đưa ông ra khỏi nhà thờ và bước vào không khí ban đêm của quảng trường.

Vẫn không có câu trả lời.

Khi đoàn người di chuyển qua khoảng trống trải rộng tiến về phía quảng trường, Garza nhận ra có rất nhiều máy quay truyền hình và những người phản đối bên ngoài cổng trước.

“Ít nhất cũng đưa tôi đi vòng lối sau chứ,” ông nói với người chỉ huy. “Đừng để công chúng thấy cảnh này.”

Mấy người lính phớt lờ lời khẩn cầu của ông và cứ đi tiếp, ép Garza diễu thẳng qua quảng trường. Chỉ trong vài giây, những giọng nói phía ngoài cổng bắt đầu la ó và ánh sáng chói chang của những ngọn đèn rọi xoay về phía ông. Chói mắt và bực mình, Garza phải cố tỏ ra bình thản và ngẩng cao đầu khi đám Cận vệ dong ông vào cách cổng chỉ vài thước, đi thẳng qua đám quay phim và phóng viên đang la ó.

Tác giả: