Sapiens: Lược sử loài người – Yuval Noah Harari

Trung tâm quyền lực thế giới chỉ chuyển sang châu Âu vào khoảng giữa những năm 1750 và 1850, khi người châu Âu làm nhục những cường quốc châu Á bằng một loạt các cuộc chiến tranh và xâm chiếm phần lớn châu Á. Đến năm 1900, châu Âu kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế và hầu hết các lãnh thổ trên thế giới. Năm 1950, Tây Âu và Mỹ đã chiếm hơn một nửa sản lượng toàn cầu, trong khi đó phần của Trung Quốc đã giảm xuống chỉ còn 5%. Dưới sự bảo hộ của châu Âu, một trật tự thế giới mới và nền văn hoá toàn cầu đã xuất hiện. Ngày nay, tất cả mọi người, ở một mức độ lớn hơn nhiều so với mức họ thường muốn thừa nhận, đều có trang phục, tư tưởng và thị hiếu của châu Âu. Họ có thể chống châu Âu quyết liệt trong lời nói, nhưng hầu như tất cả mọi người trên hành tinh đều có những quan sát chính trị, y học, chiến tranh và kinh tế qua đôi mắt châu Âu, lắng nghe âm nhạc được viết theo thang âm châu Âu với phần lời bằng ngôn ngữ châu Âu. Ngay cả nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển ngày nay, có thể sớm lấy lại vị trí đứng đầu trên thế giới, cũng được xây dựng trên mô hình sản xuất và tài chính châu Âu.

Làm thế nào những người ở vùng đất hình dạng như một “ngón tay giá lạnh” của lục địa Á-Âu lại có thể xoay xở để thoát khỏi cái góc hẻo lánh của họ và chinh phục toàn thế giới? Công trạng này thường được trao cho những nhà khoa học châu Âu. Không nghi ngờ gì, từ năm 1850 trở đi, sự thống trị của châu Âu dựa trên những tổ hợp quân sự-công nghiệp-khoa học và phép màu phi thường của công nghệ. Tất cả những đế quốc thành công thời kỳ cận đại đều nuôi dưỡng các nghiên cứu khoa học với hy vọng gặt hái được những sự đổi mới về kĩ thuật, và nhiều nhà khoa học đã dành hầu hết thời gian của họ để nghiên cứu các lĩnh vực vũ khí, y học và máy móc cho những ông chủ đế quốc của họ. Một câu nói phổ biến giữa những người lính châu Âu đối với kẻ thù người châu Phi là, “Dù sao đi nữa, ta có súng máy, còn chúng thì không”. Kĩ thuật dân sự cũng quan trọng không kém. Thực phẩm đóng hộp nuôi dưỡng binh lính, đường sắt và tàu hỏa vận chuyển binh lính cùng nhu yếu phẩm của họ, trong khi một kho những loại thuốc mới đã cứu chữa cho binh lính, thủy thủ và những kĩ sư hỏa xa. Những tiến bộ về mặt hậu cần này đóng một vai trò quan trọng hơn so với những cỗ súng máy trong cuộc chinh phục châu Phi của châu Âu.

Nhưng đó không phải là những gì xảy ra trước năm 1850. Những tổ hợp quân sự-công nghiệp-khoa học vẫn còn trong trứng nước; những thành quả công nghệ của Cách mạng Khoa học vẫn chưa chín muồi; và khoảng cách công nghệ giữa những cường quốc châu Âu, châu Á và châu Phi vẫn chưa rõ nét. Năm 1770, James Cook chắc chắn đã có kĩ thuật tốt hơn nhiều so với những thổ dân châu Úc, nhưng người Trung Hoa và người Ottoman cũng vậy. Tại sao lúc đó Thuyền trưởng James Cook lại khám phá và chiếm châu Úc làm thuộc địa, chứ không phải là Thuyền trưởng Wan Zhengse hay Thuyền trưởng Hussein Pasha? Quan trọng hơn, nếu năm 1770 châu Âu đã không có lợi thế về kĩ thuật đáng kể so với những người Hồi giáo, Ấn Độ và Trung Hoa, thì trong thế kỷ tiếp theo họ đã làm cách nào để thành công trong việc nới rộng khoảng cách với phần còn lại của thế giới?

Tại sao những tổ hợp quân sự-công nghệ-khoa học lại bùng nổ ở châu Âu chứ không phải là Ấn Độ? Khi Anh nhảy vọt về phía trước, tại sao Pháp, Đức và Mỹ đã nhanh chóng đi theo, trong khi Trung Hoa vẫn tụt lại đằng sau? Khi khoảng cách giữa những quốc gia công nghiệp và phi công nghiệp đã trở thành yếu tố kinh tế và chính trị rõ ràng, tại sao những nước như Nga, Ý và Áo lại thành công trong việc san bằng nó, trong khi Ba Tư, Ai Cập và Đế chế Ottoman lại thất bại? Xét cho cùng, công nghệ của làn sóng công nghiệp lần thứ nhất khá đơn giản. Tại sao Trung Hoa, hay Đế chế Ottoman lại gặp nhiều khó khăn trong việc thiết kế động cơ hơi nước, chế tạo súng máy và xây những tuyến đường sắt?

Tuyến đường sắt thương mại đầu tiên trên thế giới đã được khai trương vào năm 1830 ở Anh. Đến năm 1850, các quốc gia phương Tây đã có một hệ thống chằng chịt gần 40.000 km đường sắt – toàn bộ châu Á, châu Phi và Mỹ Latin chỉ có 4.000 km đường sắt. Năm 1880, phương Tây tự hào vì có hơn 350.000 km đường sắt, trong khi đó phần còn lại của thế giới chỉ có 35.000 km (và hầu hết trong số này do người Anh xây dựng ở Ấn Độ). Tuyến đường sắt đầu tiên ở Trung Hoa đến năm 1876 mới được mở. Nó dài 25 km và do người châu Âu xây dựng – nhưng chính quyền Trung Hoa đã phá hủy nó vào năm tiếp theo. Năm 1880, Đế chế Trung Hoa không có lấy một tuyến đường sắt hoạt động. Tuyến đường sắt đầu tiên ở Ba Tư đến nám 1888 mới được xây, và nó nối Tehran với một thánh địa Hồi giáo cách thủ đô này khoảng 10 km về phía nam. Nó do một công ty của Bỉ xây dựng và điều hành. Năm 1950, tổng chiều dài mạng lưới đường sắt của Ba Tư chỉ vỏn vẹn có 2.500 km với một quốc gia có kích thước gấp bảy lần nước Anh.

Người Trung Hoa và Ba Tư không thiếu những phát minh kĩ thuật giống như động cơ hơi nước (vốn có thể được sao chép tự do hoặc mua lại). Họ thiếu những giá trị, những câu chuyện huyền thoại, guồng máy tư pháp và những cấu trúc chính trị xã hội vốn phải mất nhiều thế kỷ mới thành hình và trưởng thành ở phương Tây, điều mà họ không thể sao chép và tiếp thu một cách nhanh chóng. Pháp và Mỹ nhanh chóng tiếp bước Anh, vì người Pháp và Mỹ đã chia sẻ cùng những huyền thoại và những cấu trúc xã hội quan trọng nhất với người Anh. Người Trung Hoa và Ba Tư không thể bắt kịp, vì khác biệt trong suy nghĩ và tổ chức xã hội của họ.

Lời giải thích này đã làm sáng tỏ giai đoạn từ năm 1500 đến 1850. Trong suốt thời kỳ này, châu Âu không được hưởng bất kỳ ưu thế rõ ràng nào về kĩ thuật, chính trị, quân sự hoặc kinh tế so với những cường quốc châu Á, thế nhưng lục địa này lại xây dựng được một tiềm năng độc đáo mà tầm quan trọng của nó đột nhiên trở nên rõ ràng vào khoảng những năm 1850. Sự cân bằng hiển nhiên giữa châu Âu, Trung Hoa và thế giới Hồi giáo vào năm 1750 là một phép màu. Hãy tưởng tượng hai người thợ xây, mỗi người đều bận rộn xây những tòa tháp rất cao. Một người dùng gỗ và gạch, trong khi người kia dùng thép và bê tông. Lúc đầu, dường như không có nhiều khác biệt giữa hai phương thức này, vì cả hai tòa tháp đều cao dần lên với tốc độ tương đương, và đạt độ cao tương ứng. Tuy nhiên, một khi vượt qua được ngưỡng quyết định, tòa tháp bằng gỗ và gạch không thể chịu được lực nén và sẽ sụp đổ, trong khi tòa tháp bằng thép và bê tông cao dần hết tầng nọ đến tầng kia, vươn ngút tầm mắt.

Tiềm năng nào đã phát triển ở châu Âu thời kỳ cận đại cho phép họ có khả năng thống trị thế giới hiện đại sau này? Có hai câu trả lời bổ sung cho câu hỏi này: khoa học hiện đại và chủ nghĩa tư bản. Những người châu Âu đã quen với suy nghĩ và hành xử theo phương thức khoa học và chủ nghĩa tư bản, ngay cả trước khi họ được hưởng bất kỷ một lợi thế kĩ thuật đáng kể nào. Khi sự thịnh vượng về kĩ thuật bắt đầu, những người châu Âu có thể khai thác lợi thế đó giỏi hơn nhiều so với bất kỳ ai khác. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà khoa học và chủ nghĩa tư bản đã hình thành nên di sản quan trọng nhất mà chủ nghĩa đế quốc châu Âu để lại cho thế giới hậu châu Âu thế kỷ 21. Châu Âu và những con người ở đó đã thỏi không cai trị thế giới nữa, nhưng khoa học và chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những chiến thắng của chủ nghĩa tư bản sẽ được xem xét trong chương sau. Chương này dành riêng cho chuyện tình giữa chủ nghĩa đế quốc châu Âu và khoa học hiện đại.

Tâm lý của sự chinh phục

Khoa học hiện đại đơm hoa kết trái và được nương nhờ nơi những đế quốc châu Âu. Những thành quả này rõ ràng mang nợ rất lớn đối với truyền thống khoa học thời cổ đại, như truyền thống khoa học cổ đại của Hy Lạp, Trung Hoa, Ấn Độ và Hồi giáo, nhưng đặc tính độc đáo của nó chỉ bắt đầu hình thành trong thời kỳ cận đại, liên quan chặt chẽ đến sự bành trướng đế quốc của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Nga và Hà Lan. Trong thời kỳ cận đại, những người Trung Hoa, Ấn Độ, Hồi giáo, người bản địa châu Mỹ, và người Đa đảo (Polynesia) đã tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng cho Cách mạng Khoa học. Những hiểu biết sâu sắc của các nhà kinh tế học Hồi giáo đã được Adam Smith và Karl Marx nghiên cứu, những phương pháp điều trị tiên phong của các thầy thuốc người bản địa châu Mỹ đã được đưa vào những văn bản y học bằng tiếng Anh, và những dữ liệu do người Đa đảo cung cấp đã cách mạng hoá ngành nhân học ở phương Tây. Nhưng cho đến giữa thế kỷ 20, những người đã kiểm tra đối chiếu vô số khám phá khoa học này, tạo ra các ngành khoa học trong quá trình đó, chính là giới tinh hoa trí tuệ và giới cầm quyền của những đế chế châu Âu toàn cầu. Thế giới Viễn Đông và Hồi giáo cũng sinh ra những trí tuệ thông minh và ham hiểu biết không kém người châu Âu. Tuy nhiên, giữa những năm 1500 và 1950, họ đã không đưa ra được bất cứ thứ gì có thể sánh với vật lý học của Newton hay sinh vật học của Darwin.

Điều này không có nghĩa rằng chỉ có người châu Âu mới có một gen khác thường dành cho khoa học, hoặc họ sẽ mãi mãi thống trị việc nghiên cứu vật lý và sinh học. Cũng giống như đạo Hồi bắt đầu là sự độc quyền của người Ả-rập, nhưng sau đó đã lần lượt được truyền bá cho người Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư, nền khoa học hiện đại đã bắt đầu như một đặc sản của châu Âu, nhưng ngày nay đang trở thành một công trình đa sắc tộc.