Sapiens: Lược sử loài người – Yuval Noah Harari

Các nhà khoa học đã cung cấp cho mẫu quốc những kiến thức thực tế, những biện minh ý thức hệ và những tiện ích công nghệ. Nếu không có sự đóng góp này, việc châu Âu có thể chinh phục được thế giới rất khó xảy ra. Mẫu quốc đã đền đáp lại bằng việc cung cấp cho những nhà khoa học thông tin và sự bảo hộ, hỗ trợ tất cả những dự án kỳ lạ và hấp dẫn, và truyền bá cách suy nghĩ khoa học đến những nơi xa xôi của Trái đất. Nếu không có sự ủng hộ của mẫu quốc, khoa học hiện đại chắc cũng khó có thể tiến xa. Có rất ít lĩnh vực khoa học không bắt đầu tồn tại như những công cụ của sự phát triển đế quốc, và không mắc nợ lớn đối với sự ân sủng hào phóng mà các sĩ quan quân đội, thuyền trưởng hải quân và các thống đốc uy quyền dành cho những khám phá, bộ sưu tập, công trình và nghiên cứu.

Nhưng rõ ràng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. Khoa học đã nhận được hỗ trợ từ các tổ chức khác, không chỉ từ những đế quốc. Và những đế quốc châu Âu đã nổi lên và phát triển mạnh mẽ cũng nhờ các nhân tố khác ngoài nhân tố khoa học. Đằng sau sự thành công nhanh chóng của khoa học và đế quốc, tiềm ẩn một sức mạnh đặc biệt quan trọng: chủ nghĩa tư bản. Nếu không vì những doanh nhân đang tìm cách kiếm tiền, Columbus đã không đến châu Mỹ, James Cook đã không đến châu Úc, và Neil Armstrong đã chẳng thể dạo bước trên bề mặt của Mặt trăng.

16. Tín ngưỡng tư bản

Tiền bạc là yêu cầu thiết yếu cho công cuộc xây dựng đế quốc lẫn thúc đẩy khoa học. Nhưng có phải tiền bạc là mục tiêu cuối cùng của những công cuộc này hay chỉ là một nhu cầu nguy hiểm?

Không dễ để nắm bắt được vai trò thực sự của kinh tế trong lịch sử hiện đại. Rất nhiều đầu sách viết về việc tiền bạc đã xây dựng và hủy hoại những quốc gia, đã mở ra những chân trời mới và biến hàng triệu người thành nô lệ, đã di chuyển những bánh xe kĩ nghệ, và đã đẩy hàng trăm loài vào tình trạng tuyệt chủng như thế nào. Tuy nhiên, để hiểu lịch sử kinh tế hiện đại, thực ra chỉ cần hiểu một từ duy nhất. Từ này là sự tăng trưởng. Dù có tốt hơn hay tệ hơn, lúc ốm đau lẫn khi khỏe mạnh, nền kinh tế hiện đại đã phát triển như một thiếu niên được tiêm hoóc-môn. Nó hấp thụ mọi thứ có thể tìm thấy, và tăng trưởng nhanh hơn ta có thể ước tính.

Nền kinh tế giữ nguyên quy mô trong hầu hết các giai đoạn lịch sử. Đúng là sản lượng toàn cầu đã tăng lên, nhưng hầu hết là do tình trạng tăng dân số, và việc định cư ở những vùng đất mới. Sản lượng bình quân đầu người vẫn không thay đổi. Nhưng mọi thứ đã thay đổi ở thời hiện đại. Năm 1500, sản lượng hàng hoá và dịch vụ trên toàn thế giới tương đương khoảng 250 tỉ đô-la; ngày nay nó dao động ở tầm 60.000 tỉ đô-la. Quan trọng hơn, vào năm 1500, sản lượng bình quân đầu người hằng năm trung bình là 550 đô-la, trong khi ngày nay, mọi người, nam nữ và trẻ em, trung bình sản xuất khoảng 8.800 đô-la một năm. Điều gì có thể giải thích cho sự tăng trưởng kỳ diệu này?

Kinh tế học là một chủ đề nổi tiếng phức tạp. Để có thể hiểu được mọi vấn để dễ dàng hơn, chúng ta hãy hình dung một ví dụ đơn giản.

Samuel Greedy, một nhà tài chính thông minh, sáng lập ra một ngân hàng ở El Dorado, California.

A. A. Slyter, một nhà thầu tháo vát sống ở El Dorado, khi kết thúc công việc lớn đầu tiên, nhận được thanh toán bằng tiền mặt lên tới 1 triệu đô-la. Ông liền gửi số tiền này vào ngân hàng của Greedy. Ngân hàng lúc đó có số vốn 1 triệu đô-la.

Trong khi đó, Jane McDoughnut, một đầu bếp giàu kinh nghiệm nhưng nghèo ở El Dorado, nghĩ rằng cô nhìn thấy một cơ hội kinh doanh – không có tiệm bánh nào thực sự ngon trong khu phố của cô. Nhưng cô không có đủ tiền để mua một cơ sở thích hợp, trang bị đầy đủ những lò nướng, chậu rửa, dao và nồi chảo. Cô đến ngân hàng, trình bày kế hoạch kinh doanh của mình với Greedy, và thuyết phục ông rằng đó là một vụ đầu tư sinh lợi. Ông đồng ý cho cô vay số tiền 1 triệu đô-la, bằng việc ghi số tiền nợ đó vào tài khoản ngân hàng của cô.

McDoughnut sau đó thuê nhà thầu Slyter xây dựng và trang bị cho tiệm bánh của cô. Giá thuê Slyter là 1 triệu đô-la.

Khi cô trả công bằng một tấm séc trích từ tài khoản của cô, Slyter đem gửi số tiền đó vào tài khoản cá nhân ở ngân hàng của Greedy.

Như vậy, Slyter có bao nhiêu tiền trong tài khoản ngân hàng của mình? Đúng, 2 triệu đô-la.

Bao nhiêu tiền, tiền mặt, thực sự nằm trong két sắt của ngân hàng? Vâng, 1 triệu đô-la.

Chuyện không dừng lại ở đó. Do thói quen của nhà thầu, sau hai tháng vào việc, Slyter thông báo với McDoughnut rằng, do những vấn đề và chi phí bất ngờ, hoá đơn cho công việc xây dựng tiệm bánh thực tế là 2 triệu đô-la. McDoughnut không hài lòng, nhưng cô khó có thể ngừng công việc nửa chừng. Vì vậy, cô đến ngân hàng lần nữa, thuyết phục Greedy cho cô vay thêm một món tiền, và ông đặt thêm khoản nợ 1 triệu đô-la vào tài khoản của cô. Cô chuyển tiền vào tài khoản của nhà thầu.

Giờ đây Slyter có bao nhiêu tiền trong tài khoản của mình? Ông có 3 triệu đô-la. Nhưng bao nhiêu tiền thực sự nằm trong két sắt ngân hàng? Vẫn chỉ là 1 triệu đô-la. Trong thực tế, vẫn là món tiền 1 triệu đô-la trong ngân hàng từ đầu đến giờ.

Luật ngân hàng Mỹ hiện hành cho phép nhà băng có thể lặp lại hoạt động này bảy lần. Cuối cùng nhà thầu có thể sẽ có 10 triệu đô-la trong tài khoản của mình, mặc dù ngân hàng vẫn chỉ có 1 triệu đô-la trong tài khoản. Các ngân hàng được phép cho vay 10 đô-la cho mỗi 1 đô-la mà họ thực sự sở hữu, có nghĩa là 90% tất cả số tiền trong các tài khoản ngân hàng của chúng ta không phải là tiền kim loại và tiền giấy có thể rút được. Nếu tất cả các chủ tài khoản ngân hàng Barclays đột nhiên đòi rút tiền của họ, Barclays sẽ sụp đổ ngay lập tức (trừ phi chính phủ can thiệp vào để cứu nó). Điều này cũng sẽ xảy ra với những ngân hàng như Lloyds, Deutsche Bank, Citibank, và tất cả những ngân hàng khác trên thế giới.

Nghe có vẻ giống như một mô hình Ponzi đa cấp khổng lồ? Nhưng nếu đó là một sự lừa đảo, thì toàn bộ nền kinh tế hiện đại về bản chất cũng là một sự lừa đảo. Thực ra, nó không phải là một trò lừa gạt, mà đúng hơn là một phần trong khả năng tưởng tượng tuyệt vời của con người. Những gì cho phép các ngân hàng – và toàn bộ nền kinh tế – có thể tiếp tục tồn tại và phát triển được, là kỳ vọng của chúng ta vào tương lai. Sự kỳ vọng này là cơ sở duy nhất cho hầu hết tiền bạc trên thế giới.

Trong ví dụ về tiệm bánh, sự khác biệt giữa số liệu tài chính của nhà thầu và số tiền thực tế trong ngân hàng chính là tiệm bánh của McDoughnut. Greedy đã bỏ tiền của ngân hàng vào một tài sản, tin tưởng rằng một ngày nào đó nó sẽ sinh lợi. Tiệm bánh chưa nướng một ổ bánh nào, nhưng McDoughnut và Greedy dự đoán một năm sau sẽ bán được hàng ngàn ổ bánh mì, bánh cuộn, bánh ga-tô, bánh quy mỗi ngày và thu lãi lớn. McDoughnut khi đó sẽ có thể trả khoản tiền vay của cô cùng với tiền lãi. Nếu tại thời điểm đó, Slyter quyết định rút khoản tiết kiệm của mình, Greedy sẽ có đủ tiền mặt để trả. Do đó, toàn bộ nền kinh tế được thiết lập dựa trên sự kỳ vọng vào một tương lai giả định – sự kỳ vọng của những doanh nhân và ngân hàng vào tiệm bánh trong các giấc mơ của họ, cùng với sự kỳ vọng của nhà thầu vào khả năng thanh toán trong tương lai của ngân hàng.

Chúng ta vừa thấy rằng tiền là một thứ đáng kinh ngạc, vì nó có thể đại diện cho vô vàn những đối tượng khác biệt và hầu như có thể chuyển đổi qua lại giữa mọi thứ. Tuy nhiên, trước kỷ nguyên hiện đại, khả năng này bị giới hạn. Trong hầu hết các trường hợp, tiền chỉ có thể đại diện và chuyển đổi thành những gì thực sự hiện hữu. Điều đó đã áp đặt một giới hạn khắt khe lên sự tăng trưởng, vì nó đã khiến việc hỗ trợ tài chính cho hoạt động thương nghiệp trở nên rất khó khăn.

Hãy xem xét tiệm bánh của chúng ta một lần nữa. Liệu McDoughnut có thể mở tiệm bánh nếu tiền chỉ có thể đại diện cho những đối tượng hữu hình? Không, hiện tại, cô có rất nhiều ước mơ, nhưng lại không có những nguồn lực hữu hình. Cách duy nhất để xây tiệm bánh của cô là tìm một nhà thầu sẵn sàng làm việc hôm nay và sẽ nhận thanh toán tiền công trong một vài năm nữa, nếu và khi tiệm bánh bắt đầu kiếm ra tiền. Than ôi, những nhà thầu như vậy thuộc dạng rất hiếm. Vì vậy, doanh nhân của chúng ta đã bị ràng buộc. Nếu không có tiệm bánh, cô không thể làm bánh. Nếu không có bánh làm ra, cô không thể kiếm được tiền. Nếu không có tiền, cô không thể thuê nhà thầu. Nếu không có nhà thầu thì cô không có tiệm bánh.

Loài người bị mắc kẹt trong tình trạng khó khăn này đã hàng ngàn năm. Kết quả là, các nền kinh tế vẫn tiếp tục bị đóng băng. Cách thoát khỏi cái bẫy này chỉ được tìm ra trong kỷ nguyên hiện đại, với sự xuất hiện của một hệ thống mới dựa trên sự kỳ vọng vào tương lai. Trong đó, con người chấp nhận hình dung ra hàng hoá ảo – vốn không tồn tại trong hiện tại – với một dạng đặc biệt của tiền mà họ gọi là “tín dụng”. Tín dụng cho ta khả năng xây dựng hiện tại bằng chi phí của tương lai. Nó được thiết lập dựa trên giả định rằng những nguồn lực tương lai chắc chắn sẽ dồi dào hơn những nguồn lực hiện tại. Một loạt các cơ hội mới và tuyệt vời mở ra nếu chúng ta có thể xây dựng những thứ trong hiện tại bằng thu nhập tương lai.

Nếu tín dụng là một điều tuyệt vời như vậy, tại sao không ai nghĩ đến nó trước đây? Dĩ nhiên con người đã nghĩ đến. Những thỏa thuận tín dụng ở dạng này hay dạng khác đã tồn tại trong mọi nền văn hoá từng biết đến của con người, chí ít là từ thời Sumer cổ đại. Trong những thời kỳ trước, không phải không có người có ý tưởng hoặc biết cách dùng nó thế nào. Vấn đề là mọi người hiếm khi muốn tăng lượng vốn tín dụng, vì họ chẳng mấy tin tương lai sẽ tốt hơn hiện tại. Họ thường tin rằng quá khứ tốt đẹp hơn so với hiện tại, rằng tương lai sẽ còn tệ hơn, khả quan lắm thì cũng chỉ bằng hiện tại là cùng. Theo thuật ngữ kinh tế, họ tin rằng tổng lượng của cải là giới hạn, nếu không muốn nói là suy giảm. Do đó, họ thấy quá liều lĩnh khi giả định rằng cá nhân họ, hay vương quốc của họ, hay toàn thế giới, sẽ sản xuất được nhiều của cải hơn trong chục năm nối tiếp sau đó. Kinh doanh giống như một trò chơi có tổng bằng không. Dĩ nhiên, lợi nhuận của một tiệm bánh đặc biệt nào đó có thể tăng, nhưng chỉ dựa trên thiệt hại của những tiệm bánh bên cạnh. Venice có thể phát triển thịnh vượng, nhưng chỉ bằng cách vắt kiệt Genoa. Nhà vua Anh có thể làm giàu cho bản thân, nhưng chỉ bằng cách cướp bóc của vua nước Pháp. Bạn có thể cắt chiếc bánh theo nhiều cách khác nhau, nhưng nó không bao giờ biến thành chiếc bánh lớn hơn.