Sapiens: Lược sử loài người – Yuval Noah Harari

Việc tìm ra châu Mỹ là nền tảng của Cách mạng Khoa học. Nó không chỉ dạy người châu Âu ủng hộ những quan sát hiện tại thay vì các truyền thống trong quá khứ, mà khao khát chinh phục châu Mỹ cũng buộc người châu Âu tìm kiếm kiến thức mới với tốc độ chóng mặt. Nếu họ thực sự muốn kiểm soát những vùng lãnh thổ mới rộng lớn, họ phải thu thập một khối lượng khổng lồ những dữ liệu mới về địa lý, khí hậu, thực vật, động vật, ngôn ngữ, các nền văn hoá và lịch sử của lục địa mới. Kinh Thánh của đạo Ki-tô, những cuốn sách địa lý cổ lỗ và những truyền thống truyền miệng cổ xưa đã có rất ít tác dụng trong việc này.

Từ đó về sau, không chỉ những nhà địa lý châu Âu, mà cả những học giả châu Âu trong hầu hết các lĩnh vực tri thức khác đều bắt đầu vẽ bản đồ với khoảng trống để sau này điền vào. Họ bắt đầu thừa nhận rằng lý thuyết của họ không phải hoàn hảo, và có nhiều điều quan trọng mà họ đã không biết.

Những người châu Âu đã bị các khoảng trống trên bản đồ thu hút như thể chúng là những cục nam châm, và bắt đầu tiến hành lấp đầy chúng ngay. Trong suốt thế kỷ 15 và 16, những nhà thám hiểm châu Âu đi vòng quanh châu Phi, khám phá châu Mỹ, vượt qua Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, tạo ra một mạng lưới gồm các căn cứ và thuộc địa trên toàn thế giới. Họ đã thiết lập những đế quốc toàn cầu chính hiệu đầu tiên, và đan chúng vào nhau tạo thành mạng lưới thương mại toàn cầu đầu tiên. Những cuộc viễn chinh đế quốc của người châu Âu đã biến đổi lịch sử thế giới: chuỗi lịch sử của các dân tộc và các nền văn hoá bị cô lập đã trở thành lịch sử của một xã hội loài người thống nhất.

Bản đồ thế giới của Salviati, 1525.

Hình 36. Bản đồ thế giới của Salviati, 1525. Trong khi bản đồ thế giới năm 1459 đầy những lục địa, đảo và chú giải chi tiết, thì bản đồ Salviati gần như trống rỗng. Người quan sát lang thang dọc theo phía nam của bờ biển châu Mỹ, cho đến khi chìm dần vào sự trống trải. Bất cứ ai nhìn vào bản đồ chắc chắn sẽ tò mò muốn hỏi, “Ngoài khu vực này là gì?”. Tấm bản đồ không trả lời. Nó mời gọi người quan sát ra khơi và tìm cho ra đáp án.

Những cuộc thám hiểm khám-phá-và-chinh-phục này của người châu Âu đã quá quen thuộc với chúng ta đến mức chúng ta có xu hướng phớt lờ việc chúng từng phi thường đến thế nào. Không có gì như thế từng xảy ra trước đây. Những chiến dịch viễn chinh không phải là một nhiệm vụ tự phát. Trong lịch sử, hầu hết những xã hội loài người đều quá bận rộn với những xung đột địa phương và những tranh chấp lân bang, nên chuyện thám hiểm và chinh phục những vùng đất xa xôi chưa từng được họ xem xét đến. Hầu hết những đế chế vĩ đại chỉ mở rộng sự kiểm soát của mình trên những nước láng giềng liền kề – nếu có vươn đến những vùng đất xa xôi thì cũng chỉ đơn giản là vì lại tiếp tục xuất hiện những nước láng giềng khác. Vậy nên những người La Mã chinh phục Etruria để bảo vệ thành Rome (khoảng năm 350-300 TCN). Sau đó, họ đã chinh phục thung lũng Po để bảo vệ Etruria (khoảng năm 200 TCN). Tiếp đó họ đi đến chinh phục vùng Provence để bảo vệ thung lũng Po (khoảng năm 120 TCN), rồi xứ Gaul để bảo vệ Provence (khoảng năm 50 TCN), và quốc đảo Anh để bảo vệ xứ Gaul (khoảng năm 50). Phải mất 400 năm để đi từ Rome đến London. Năm 350 TCN, không có người La Mã nào nghĩ đến chuyện dùng thuyền đi thẳng đến Anh và chinh phục vùng đất đó.

Đôi khi một bậc quân vương hay nhà thám hiểm đầy tham vọng sẽ bắt tay vào một chiến dịch chinh phục có phạm vi rất xa, nhưng theo sau chúng thường là những tuyến đường thương mại hoặc đế chế quen thuộc. Ví dụ, các chiến dịch của Alexander Đại đế đã không dẫn đến việc thành lập một đế chế mới, mà đúng hơn là sự tiếm quyền một đế chế đang tồn tại của người Ba Tư. Tiền lệ gần đây nhất của đế quốc châu Âu hiện đại là những đế chế hải quân thời cổ đại của Athens và Carthage, và đế chế hải quân thời trung cổ của Majapahit, vốn nắm giữ sự thống trị trên nhiều phần của quần đảo Indonesia trong thế kỷ 14. Tuy nhiên, ngay cả những đế chế này cũng hiếm khi mạo hiểm tiến vào các vùng biển chưa được biết đến – những kỳ tích hàng hải của họ chỉ là những nhiệm vụ mang tính cục bộ khi so với những hải trình mạo hiểm ở quy mô toàn cầu của người châu Âu hiện đại.

Nhiều học giả cho rằng, những chuyến hải trình của Đô đốc Trịnh Hòa thời nhà Minh ở Trung Hoa đã làm lu mờ hành trình khám phá của người châu Âu. Giữa những năm 1405 và 1433, Trịnh Hòa dẫn bảy đội tàu khổng lồ từ Trung Hoa đến những vùng xa xôi của Ấn Độ Dương. Đội tàu lớn nhất trong số này gồm gần 300 tàu, chở gần 30.000 người. Họ đã đi đến Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ và Đông Phi. Những con thuyền Trung Hoa thả neo ở Jedda hải cảng chính của Hejaz, và ở Malindi trên bờ biển Kenya. Đội tàu của Columbus vào năm 1492 – trong đó bao gồm ba tàu biển nhỏ gồm 120 thủy thủ – chỉ giống như bộ ba con muỗi, so với bầy rồng mà Trịnh Hòa chỉ huy.

Tuy nhiên có một sự khác biệt rất quan trọng. Trịnh Hòa đã thám hiểm các đại dương, và trợ giúp những nhà cầm quyền thân Trung Hoa, nhưng ông đã không cố gắng để chinh phục hoặc định cư ở những quốc gia ghé đến. Hơn nữa, những cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa đã không có nhiều ảnh hưởng với nền chính trị và văn hoá Trung Hoa. Khi phe nắm quyền ở Bắc Kinh thay đổi trong những năm 1430, những bậc quân vương mới đột ngột chấm dứt hoạt động của chiến dịch. Đội tàu lớn bị tháo dỡ, kiến thức về kĩ thuật và địa lý quan trọng bị mất mát, và không có nhà thám hiểm Trung Hoa nào với tầm cỡ và phương tiện như vậy, lại một lần nữa khởi hành từ một hải cảng của Trung Hoa. Giới cầm quyền Trung Hoa trong những thế kỷ tiếp sau, giống như hầu hết giới cầm quyền Trung Hoa trong những thế kỷ trước, chỉ giới hạn mối quan tâm và tham vọng của họ ở những vùng đất lân cận liền kề với xứ Trung Nguyên này.

Những cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa đã chứng minh rằng châu Âu không có một nền công nghệ tiến bộ vượt bậc. Cái đã làm cho những người châu Âu trở nên khác biệt chính là tham vọng chưa từng có, cùng sự tham lam vô độ muốn khám phá và chinh phục. Mặc dù có khả năng, nhưng người La Mã chưa từng có ý muốn chinh phục Ấn Độ hay bán đảo Scandinavia, người Ba Tư chưa từng muốn chinh phục Madagascar hay Tây Ban Nha, và người Trung Hoa đã không cố để chinh phục Indonesia hay châu Phi. Cả Nhật Bản nằm ngay sát, hầu hết giới cầm quyền Trung Hoa cũng không hề đả động gì đến. Không có gì khác thường về điều này. Điều kỳ lạ chính là những quốc gia châu Âu đầu thời kỳ hiện đại đã lên một cơn sốt khiến họ giương buồm đến những vùng đất xa xôi và hoàn toàn không được biết đến, với những nền văn hoá xa lạ, nhảy một bước lên những bãi biển đó, và ngay lập tức tuyên bố, “Ta tuyên bố tất cả lãnh thổ này thuộc về nhà vua của ta!”

Tàu đô đốc của Trịnh Hòa, bên cạnh là thuyền của Columbus.

Hình 37. Tàu đô đốc của Trịnh Hòa, bên cạnh là thuyền của Columbus.

Sự xâm lăng từ bên ngoài

Khoảng năm 1517, những thực dân Tây Ban Nha ở quần đảo Caribe, bắt đầu nghe được những tin đồn mơ hồ về một đế chế hùng mạnh ở đâu đó trong trung tâm đất liền Mexico. Chỉ vỏn vẹn bốn năm sau, kinh đô Aztec đã là một đống đổ nát cháy âm ỉ, Đế chế Aztec chỉ còn là quá khứ, và Hernán Cortés làm chúa tể một đế chế Tây Ban Nha mới rộng lớn ở Mexico.

Những người Tây Ban Nha đã không dừng lại để chúc mừng chính họ, hoặc thậm chí để lấy lại hơi thở bình thường. Họ lập tức bắt đầu những chiến dịch khám phá và chinh phục theo mọi hướng. Những nhà cai trị trước đây của vùng Trung Mỹ – người Aztec, Toltec, Maya – gần như không biết có một Nam Mỹ tồn tại, và chưa bao giờ có bất kỳ nỗ lực nào để chinh phục nó trong suốt 2.000 năm. Thế mà, trong vòng chỉ hơn 10 năm sau sự kiện chinh phục Mexico của Tây Ban Nha, Prancisco Pizarro đã tìm ra Đế chế Inca ở Nam Mỹ và chế ngự nó trong năm 1532.

Nếu như người Aztec và Inca quan tâm nhiều hơn một chút đến thế giới quanh họ – và nếu như họ biết những gì người Tây Ban Nha đã làm với láng giềng của họ – họ đã có thể chống lại sự xâm lược của Tây Ban Nha kiên trì và thành công hơn. Trong những năm kể từ cuộc hành trình đầu tiên của Columbus đến châu Mỹ (1492) tới cuộc đổ bộ của Cortés vào Mexico (1519), người Tây Ban Nha đã xâm chiếm hầu hết những quần đảo vùng Caribe, thiết lập một chuỗi thuộc địa mới. Đối với những người bản xứ bị khuất phục, các thuộc địa này là địa ngục trần gian. Họ đã bị cai trị bằng bàn tay sắt của chế độ thực dân tham lam và vô liêm sỉ, những kẻ đã bắt họ làm nô lệ và đẩy họ vào làm việc trong những hầm mỏ và đồn điền, giết hại bất cứ ai dám mảy may kháng cự. Hầu hết cư dân bản địa chẳng bao lâu đã bị giết sạch, hoặc do điều kiện làm việc khắc nghiệt, hoặc do những căn bệnh chết người theo đến châu Mỹ trên các con tàu lớn của kẻ xâm lược. Trong vòng 20 năm, gần như toàn bộ dân số bản địa vùng Caribe bị xóa sổ. Những thực dân Tây Ban Nha đã bắt đầu phải nhập khẩu nô lệ châu Phi để lấp chỗ trống.

Sự diệt chủng này đã diễn ra ngay trên ngưỡng cửa của chính đế chế Aztec, nhưng khi Cortés đổ bộ lên bờ biển phía đông, những người Aztec đã không biết gì về chuyện đó. Việc những người Tây Ban Nha đến đây tương đương với một cuộc xâm lược của người ngoài hành tinh từ không gian. Người Aztec đã tự cho rằng họ hiểu biết toàn thể thế giới, và rằng họ cai trị hầu hết thế giới đó. Đối với họ, thật không thể tưởng tượng được ngoài lãnh thổ của mình lại có thể tồn tại bất cứ cái gì đó giống như những người Tây Ban Nha này. Khi Cortés và người của ông ta đặt chân lên bãi biển đầy nắng thuộc thành phố Vera Cruz ngày nay, đó là lần đầu tiên những người Aztec gặp một đám người từ trước tới nay họ chưa từng gặp.