Sapiens: Lược sử loài người – Yuval Noah Harari

Điều gì đã tạo nên mối ràng buộc lịch sử giữa khoa học hiện đại và chủ nghĩa đế quốc châu Âu? Công nghệ là một nhân tố quan trọng trong thế kỷ 19 và 20, nhưng ở thời kỳ đầu của kỷ nguyên hiện đại, nó chỉ có tầm quan trọng hạn chế. Nhân tố quan trọng là các nhà thực vật học tìm kiếm cây cỏ và các sĩ quan hải quân tìm kiếm thuộc địa cùng chia sẻ một tư duy tương đồng. Cả nhà khoa học và kẻ chinh phục đã bắt đầu bằng việc thừa nhận sự ngu dốt – họ đều nói rằng, “Tôi không biết có những gì ở ngoài kia”. Họ đều cảm thấy bắt buộc phải đi ra ngoài kia để có những khám phá mới. Và cả hai bên đều hy vọng những kiến thức mới có được sẽ giúp họ trở thành những ông chủ của thế giới.

Chủ nghĩa đế quốc châu Âu hoàn toàn không giống như tất cả những di sản đế chế khác trong lịch sử. Những người chinh phục trước đây có xu hướng cho rằng họ đã hiểu biết về thế giới rồi. Việc chinh phục chỉ đơn thuần là khai thác và truyền bá tư tưởng của họ về thế giới. Người Ả-rập là một ví dụ, họ đã không chinh phục Ai Cập, Tây Ban Nha hay Ấn Độ để khám phá thứ gì đó mà mình không biết. Người La Mã, Mông Cổ và người Aztec ở Mexico đã khao khát chinh phục những vùng đất mới để tìm kiếm quyền lực và sự giàu có – chứ không phải kiến thức. Ngược lại, các đế chế châu Âu thì lên đường đến những bờ biển xa xôi với hy vọng có được kiến thức mới cùng với những vùng đất mới.

James Cook không phải là nhà thám hiểm đầu tiên suy nghĩ theo cách này. Những nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào thế kỷ 15 và 16 cũng từng như vậy. Hoàng tử Henry Nhà hàng hải và Vasco da Gama đã thám hiểm những bờ biển châu Phi, và trong quá trình đó, đã nắm lấy quyền kiểm soát những hòn đảo và bến cảng. Christopher Columbus “tìm ra” châu Mỹ và ngay lập tức tuyên bố chủ quyền trên những vùng đất mới của nhà vua Tây Ban Nha. Ferdinand Magellan tìm thấy tuyến đường biển vòng quanh thế giới, và đồng thời đặt nền móng cho sự chinh phục quần đảo Philippines của Tây Ban Nha.

Theo thời gian, công cuộc chinh phục kiến thức và chinh phục lãnh thổ trở nên gắn bó chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Trong thế kỷ 18 và 19, hầu hết những cuộc thám hiểm quân sự quan trọng từ châu Âu đi đến những vùng đất xa xôi đều có những nhà khoa học trên boong tàu, những người ra đi không phải để chiến đấu mà là tìm kiếm những phát kiến khoa học. Khi Napoleon xâm lăng Ai Cập năm 1798, ông đem theo 165 học giả đi cùng. Ngoài những vấn đề khác, họ đã thành lập một ngành khoa học hoàn toàn mới, ngành Ai Cập học, và có những đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu tôn giáo, ngôn ngữ học và thực vật học.

Năm 1831, Hải quân Hoàng gia gửi tàu HMS Beagle ra khơi để vẽ bản đồ những vùng bờ biển Nam Mỹ, quần đảo Falklands và quần đảo Galapagos. Hải quân Anh cần những kiến thức này để chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp chiến tranh. Thuyền trưởng của tàu, vốn là một nhà khoa học nghiệp dư, đã quyết định đưa thêm một nhà địa chất học vào đoàn thám hiểm để nghiên cứu những quá trình hình thành địa chất mà họ có thể gặp trên đường đi. Sau khi một số nhà địa chất chuyên nghiệp từ chối lời mời của ông, thuyền trưởng đã trao nhiệm vụ này cho một thanh niên 22 tuổi mới tốt nghiệp Đại học Cambridge, Charles Darwin. Darwin đã từng học tập để trở thành một cha xứ nhà thờ Anh, nhưng lại quan tâm nhiều đến địa chất học và khoa học tự nhiên hơn là Kinh Thánh. Ông chớp lấy thời cơ, và chuyện sau đó thì ai cũng biết. Thuyền trưởng đã dành thời gian của mình trong chuyến hành trình để vẽ những bản đồ quân sự, trong khi Darwin thu thập những dữ liệu thực nghiệm và xây dựng những hiểu biết sâu sắc mà cuối cùng sẽ trở thành thuyết tiến hoá.

Ngày 20 tháng Bảy năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên bề mặt của Mặt trăng. Trong những tháng chuẩn bị cho cuộc thám hiểm này, những phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 đã. được huấn luyện trong một sa mạc hẻo lánh có đặc điểm giống Mặt trăng ở phía Tây nước Mỹ. Khu vực này là quê hương của nhiều cộng đồng người Mỹ bản địa, và có một câu chuyện – hay truyền thuyết – mô tả một cuộc gặp gỡ giữa những phi hành gia và một người thổ dân.

Một ngày nọ, khi họ đang huấn luyện, những phi hành gia ngẫu nhiên gặp một cụ già người Mỹ bản xứ. Cụ già hỏi họ đang làm gì ở đó. Họ trả lời rằng mình là một phần của chuyến thám hiểm nghiên cứu mà trong thời gian ngắn nữa sẽ đi lên Mặt trăng. Khi nghe nói thế, cụ già đã im lặng trong vài phút, rồi nhờ những phi hành gia xem liệu có thể làm ơn giúp mình một việc không.

“Cụ muốn gì?” họ hỏi.

“Vâng,” cụ già nói, “những người cùng bộ tộc của tôi tin rằng những thần linh linh thiêng sống trên Mặt trăng. Tôi không biết liệu anh có thể chuyển một thông điệp quan trọng từ dân tộc chúng tôi đến cho họ không”.

“Thông điệp gì vậy?” những phi hành gia hỏi.

Cụ già thốt ra điều gì đó bằng ngôn ngữ bộ lạc của mình, và sau đó yêu cầu những phi hành gia nhắc đi nhắc lại câu nói đó nhiều lần, cho đến khi họ thuộc lòng nó thật chính xác.

“Nó có nghĩa gì vậy?” những phi hành gia hỏi.

“Ồ, tôi không thể nói cho các ông nghe. Đó là một bí mật chỉ có bộ lạc chúng tôi và những thần linh thiêng trên Mặt trăng mới được phép biết”.

Khi họ trở về cần cứ, những phi hành gia đã cố tìm một người có thể nói ngôn ngữ của bộ lạc đó, và nhờ anh ta dịch thông điệp bí mật này. Sau khi lặp lại những gì họ đã thuộc lòng, người phiên dịch bắt đầu phá ra cười. Khi anh ta đã bình tĩnh lại, những phi hành gia hỏi anh ta nó có nghĩa gì. Người phiên dịch giải thích rằng câu nói mà họ đã thuộc lòng rất cẩn thận nghĩa là, “Đừng tin dù chỉ một từ những người này nói với ngài. Họ đến để đánh cắp đất đai của ngài”.

Những tấm bản đồ trống

Tâm lý “khám phá và chinh phục” thời hiện đại được minh họa rõ nét bằng sự phát triển của bản đồ thế giới. Nhiều nền văn hoá đã vẽ nên những bản đồ thế giới trước thời kỷ hiện đại rất lâu. Rõ ràng, không một nền văn hoá nào trong số đó thực sự biết được toàn thể thế giới. Không có nền văn hoá Á-Phi nào đã biết về châu Mỹ, và không có nền vân hoá châu Mỹ nào biết về lục địa Á-Phi. Những khu vực xa lạ chỉ đơn giản là bị bỏ trống, hoặc chứa đầy quái vật và kỳ quan tưởng tượng. Những tấm bản đồ này không có khoảng trống. Chúng đã cho ta ấn tượng về một sự thân thuộc với toàn thể thế giới.

Trong thế kỷ 15 và 16, người châu Âu bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với rất nhiều khoảng trống – một dấu hiệu của sự phát triển tư duy khoa học, cũng như sự cố gắng của đế chế châu Âu. Những tấm bản đồ trống là một bước đột phá về tâm lý và tư tưởng, một sự thừa nhận rõ ràng rằng những người châu Âu đã không biết gì về những phần rộng lớn của thế giới.

Bước ngoặt quan trọng đã đến vào năm 1492, khi Christopher Columbus giương buồm từ Tây Ban Nha đi về hướng Tây, tìm một hải trình mới để đến vùng Đông Á. Columbus vẫn tin vào những tấm bản đồ thế giới “hoàn chỉnh” trước đây. Khi sử dụng chúng, Columbus tính rằng Nhật Bản hẳn phải nằm ở vị trí khoảng 7.000 km về phía tây của Tây Ban Nha. Trên thực tế, khoảng cách là hơn 20.000 km và toàn bộ một lục địa chưa được biết đến đã phân cách giữa Đông Á với Tây Ban Nha. Ngày 12 tháng Mười năm 1492, vào khoảng 2:00 sáng, đoàn thám hiểm của Columbus tiếp cận một lục địa chưa từng được biết đến. Juan Rodriguez Bermejo, đứng quan sát trên cột buồm của tàu Pinta, nhìn thấy một hòn đảo mà ngày nay chúng ta gọi là đảo Bahamas, và hét lên “Đất liền! Đất liền!”

Bản đồ thế giới của châu Âu từ năm 1459

Hình 35. Một bản đồ thế giới của châu Âu từ năm 1459 (châu Âu nằm ở góc trên cùng bên trái). Bản đồ được lấp đầy bằng những chi tiết, thậm chí cả những khu vực được mô tả là một thế giới hoàn toàn xa lạ với người châu Âu, như Nam Phi.

Columbus tin rằng mình vừa đặt chân đến một đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển Đông Á. Ông gọi những người mình gặp ở đó là “người Ấn Độ”, vì ông nghĩ mình đã đổ bộ lên Ấn Độ – vùng mà ngày nay chúng ta còn gọi là Đông Ấn hoặc quần đảo Indonesia. Columbus đã mang theo sự nhầm lẫn này trong suốt phần đời còn lại. Ý tưởng về chuyện đã tìm ra một lục địa hoàn toàn chưa được biết đến, với ông và nhiều người cùng thế hệ ông là một điều gì đó không thể tưởng tượng được. Trong hàng nghìn năm, không chỉ những nhà tư tưởng và những học giả vĩ đại nhất, mà những lời thánh kinh không thể sai lầm cũng chỉ biết đến châu Âu, châu Phi và châu Á. Có lẽ nào tất cả chúng đều đã sai? Có thể nào Kinh Thánh đã bỏ quên mất một nửa thế giới? Việc này cũng khó tin như chuyện giả dụ năm 1969, trên đường tới Mặt trăng, phi thuyền Apollo 11 lại va vào một mặt trăng khác mà từ trước đến nay chưa từng được biết đến, cũng quay quanh Trái đất mà tất cả những quan sát thiên văn trước đây không hề phát hiện ra. Với việc từ chối thừa nhận sự ngu dốt, Columbus vẫn là một con người thời trung cổ. Ông tin rằng mình đã biết trọn vẹn về thế giới, và thậm chí chính sự khám phá lớn lao của ông cũng không thuyết phục ông nghĩ khác đi.

Con người hiện đại đầu tiên là Amerigo Vespucci, một thủy thủ người Ý, người đã tham gia vào nhiều cuộc thám hiểm tới châu Mỹ trong những năm 1499-1504. Giữa những năm 1502 và 1504, hai văn bản mô tả những cuộc thám hiểm này đã được xuất bản ở châu Âu. Chúng được cho là do Vespucci ghi lại. Những văn bản này lập luận rằng những vùng đất mới được Columbus tìm ra không phải là những đảo ngoài khơi bờ biển Đông Á, mà đúng hơn là toàn bộ một lục địa mà Kinh Thánh, những nhà địa lý cổ điển, và những người châu Âu đương thời đều chưa biết đến. Năm 1507, bị thuyết phục bởi những lập luận này, một người vẽ bản đồ rất được kính trọng, tên là Martin Waldseemüller, đã công bố một bản đồ thế giới được cập nhật, trước tiên cho thấy nơi mà những đội tàu đi về hướng tây của châu Âu đã đặt chân đến chính là thuộc một lục địa riêng biệt. Khi vẽ nó, Waldseemủller đã đặt cho lục địa này một tên gọi. Do nhầm lẫn rằng Amerigo Vespucci là người tìm ra lục địa này, Waldseemüller đặt tên lục địa này là America để vinh danh Vespucci. Bản đồ Waldseemüller trở nên rất phổ biến, và đã được nhiều nhà vẽ bản đồ khác sao chép, truyền bá cái tên mà ông đã đặt cho vùng đất mới. Đó là sự tưởng thưởng xứng đáng cho sự thật là một phần tư của thế giới, và hai trong số bảy lục địa của nó, được đặt tên theo một người Ý ít tiếng tăm, người đã có can đảm để phát ngôn tuyên bố độc nhất khiến ông trở nên nổi tiếng, “Chúng ta không biết”.