Sapiens: Lược sử loài người – Yuval Noah Harari

Hội chứng khoá trong[19] một người mất hoàn toàn hoặc hầu hết khả năng cử động bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể mình, nhưng khả năng nhận thức vẫn còn nguyên vẹn. Bệnh nhân mắc hội chứng này cho đến nay chỉ có thể giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua cử động hạn chế của mắt. Tuy nhiên, một số bệnh nhân đã được cây các điện cực thu tín hiệu vào não của họ. Các nỗ lực đang được thực hiện để chuyển tín hiệu như vậy không chỉ đơn thuần thành cử động mà có thể thành ngôn ngữ. Nếu thí nghiệm thành công, bệnh nhân bị hội chứng này cuối cùng có thể nói chuyện trực tiếp với thế giới bên ngoài, và cuối cùng chúng ta có thể sử dụng công nghệ này để đọc suy nghĩ của người khác.

Song, trong tất cả các dự án đang được phát triển, nỗ lực cách mạng nhất là tạo ra một giao diện tương tác trực tiếp hai chiều giữa bộ não và máy tính, cho phép máy tính có thể đọc các tín hiệu điện não đồ, đồng thời truyền các tín hiệu mà não có thể đọc được quay trở lại. Nếu như những giao diện như vậy được sử dụng để trực tiếp liên kết bộ não với Internet, hoặc liên kết trực tiếp nhiều bộ não với nhau, do đó tạo ra một loại mạng internet của não bộ thì sao? Điều gì có thể xảy ra với bộ nhớ con người, ý thức con người và bản chất con người nếu não có quyền truy cập trực tiếp vào một ngân hàng bộ nhớ tập thể? Trong tình huống như vậy, ví dụ, một cyborg có thể lấy kỷ niệm của người khác – không chỉ được nghe, được đọc về họ trong cuốn tự truyện, mà trực tiếp nhớ lại chúng như thể đó là kí ức của mình. Điều gì xảy ra với các khái niệm như bản ngã và giới tính, khi trí tuệ trở thành tập thể? Làm thế nào bạn có thể hiểu về bản thân hay theo đuổi giấc mơ của mình, nếu giấc mơ không chỉ tồn tại trong tâm trí bạn mà còn tồn tại trong một số bể chứa tập thể những khát vọng?

Một cyborg như vậy sẽ không còn là con người, hoặc kể cả là một thực thể hữu cơ. Nó sẽ là một cái gì đó hoàn toàn khác. Về cơ bản, nó sẽ là một thực thể hoàn toàn khác lạ mà chúng ta thậm chí không thể nắm bắt được những hàm ý triết học, tâm lý hay chính trị của nó.

Một cuộc sống khác

Cách thứ ba để thay đổi các quy luật của cuộc sống là thiết kế một thực thể hoàn toàn phi hữu cơ. Một ví dụ rõ ràng nhất là các chương trình máy tính và virus máy tính có thể trải qua quá trình tiến hoá độc lập.

Ngày nay, lĩnh vực lập trình di truyền là một trong những điểm thú vị nhất của thế giới khoa học máy tính. Nó cố gắng mô phỏng các phương pháp tiến hoá di truyền. Nhiều lập trình viên mơ ước tạo ra một chương trình có thể học hỏi và tiến hoá hoàn toàn độc lập với người tạo ra nó. Trong trường hợp này, lập trình viên sẽ giống như một động lực đầu tiên, người di chuyển đầu tiên, nhưng sáng tạo của anh ta sẽ được tự do tiến hoá theo những hướng mà không phải nhà sản xuất cũng như bất kỳ ai khác hình dung nổi.

Một nguyên mẫu cho một chương trình như vậy đã thực sự tồn tại – đó chính là một virus máy tính. Khi lây lan qua Internet, virus tự sao chép thành hàng triệu triệu lần, trong khi vẫn bị truy đuổi bởi các chương trình diệt virus và cạnh tranh với các virus khác để có một vị trí trong không gian mạng. Một ngày kia, khi virus sao chép chính nó, một sai sót đã xảy ra – một đột biến vi tính. Có lẽ đột biến xảy ra vì các kĩ sư lập trình cho con virus đó để thỉnh thoảng nó tự tạo ra các sao chép sai lầm ngẫu nhiên. Có lẽ đột biến là do lỗi ngẫu nhiên. Nếu tình cờ virus đột biến có thể trốn tránh các chương trình chống virus tốt hơn mà không làm mất khả năng xâm nhập các máy tính khác, thì virus mới sẽ được lan truyền qua không gian mạng. Nếu vậy, các đột biến sẽ sống sót và nhân lên nhiều lần. Thời gian trôi qua, không gian mạng sẽ tràn ngập các loại virus mới vốn không do con người thiết kế, và trải qua quá trình tiến hoá phi hữu cơ.

Liệu chúng có là những sinh vật sống? Điều đó còn phụ thuộc vào việc bạn hiểu thế nào là một “sinh vật sống”. Chúng chắc chắn đã được sản xuất bởi một quá trình tiến hoá mới, hoàn toàn độc lập với các quy luật và giới hạn của quá trình tiến hoá hữu cơ.

Hãy tưởng tượng một khả năng khác – giả sử bạn có thể sao lưu bộ não của mình vào một ổ cứng di động, và sau đó chạy nó trên laptop của mình. Liệu laptop ấy sẽ có thể suy nghĩ và cảm nhận giống như một Sapiens? Nếu vậy, nó sẽ là bạn hay một người nào khác? Điều gì xảy ra nếu những lập trình viên máy tính có thể tạo ra một trí tuệ kĩ thuật số hoàn toàn mới, bao gồm các mã máy tính, chứa đựng một cảm giác hoàn chỉnh về bản ngã, ý thức và trí nhớ? Nếu bạn chạy chương trình này trên máy tính của mình, liệu nó có phải là một con người? Và nếu bạn xóa nó, bạn có thể bị buộc tội giết người không?

Chúng ta sẽ sớm có câu trả lời cho những câu hỏi như vậy. Dự án Bộ não Người, được hình thành vào năm 2005, với hy vọng sẽ tái tạo một bộ não người hoàn chỉnh bên trong một máy tính, với các mạch điện tử trong máy tính mô phỏng mạng lưới thần kinh của não. Giám đốc dự án đã tuyên bố rằng, nếu được tài trợ đầy đủ, thì trong vòng một hoặc hai thập kỷ, chúng ta có thể có một bộ não người nhân tạo bên trong một máy tính, nó có thể nói chuyện và cư xử như một con người thực sự. Nếu thành công, điều đó có nghĩa rằng sau 4 tỉ năm vận động trong thế giới nhỏ bé của các hợp chất hữu cơ, sự sống sẽ đột nhiên bùng phát trong cõi vô cơ bao la, sẵn sàng biến hình và vượt ra ngoài ước mơ ngông cuồng nhất của chúng ta. Không phải tất cả các học giả đều đồng ý rằng trí tuệ con người làm việc theo cách tương tự như máy tính kĩ thuật số hiện đại, nếu không máy tính hiện đại đã có thể mô phỏng nó. Tuy nhiên, sẽ thật ngu ngốc nếu bác bỏ mọi khả năng trước khi thử. Năm 2013, dự án đã nhận được một khoản tài trợ 1 tỉ Euro từ Liên minh châu Âu.

Điểm độc nhất

Hiện, chỉ một phần rất nhỏ những cơ hội mới này đã được hiện thực hoá. Song, thế giới năm 2014 đã là một thế giới trong đó văn hoá đang tự mình tháo gỡ những xiểng xích của sinh học. Khả năng thiết kế không chỉ thế giới xung quanh, mà trên hết là thế giới bên trong cơ thể và tâm trí của chúng ta, đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Ngày càng có nhiều lĩnh vực đang bị khuấy động khỏi những cách hoạt động xưa cũ của chúng. Các luật sư cần suy nghĩ lại về vấn đề riêng tư và danh tính; các chính phủ đang đối mặt với việc suy nghĩ lại về các vấn để chăm sóc sức khỏe và bình đẳng; các hiệp hội thể thao và cơ sở giáo dục phải định nghĩa lại sự công bằng và thành tích; các quỹ hưu trí và thị trường lao động nên điều chỉnh lại cho phù hợp với một thế giới trong đó người 60 tuổi mới chỉ như 30. Tất cả đều phải đối đầu với các câu hỏi hóc búa của công nghệ sinh học, cyborg và đời sống vô cơ.

Đã phải mất tới 13 năm và 3 tỉ đô-la để lập bản đồ gen đầu tiên của loài người. Hiện nay bạn có thể lập bản đồ ADN của một người trong vòng vài tuần với chi phí vài trăm đô-la. Thời đại của y học cá nhân hoá – nền y học với những phương thuốc điều trị phù hợp với ADN – đã bắt đầu. Bác sĩ gia đình có thể sớm nói với bạn một cách chắc chắn rằng bạn phải đối mặt với nguy cơ cao về ung thư gan, trong khi bạn không cần phải lo lắng nhiều về các cơn đau tim. Ông ta có thể xác định được một loại thuốc phổ biến giúp ích cho 92% bệnh nhân khác là vô ích đối với bạn, và thay vào đó bạn nên dùng thuốc khác, gây tử vong cho nhiều người nhưng lại phù hợp với bạn. Con đường dẫn đến nền y học gần như hoàn hảo đang hiện ra trước chúng ta.

Tuy nhiên, những cải tiến về kiến thức y tế sẽ kéo theo các câu hỏi hóc búa về đạo đức mới. Các nhà đạo đức học và các chuyên gia pháp lý đang phải chiến đấu với vấn đề gai góc về quyền riêng tư vì nó liên quan đến ADN. Các công ty bảo hiểm có được quyền yêu cầu quét ADN của chúng ta và nâng phí bảo hiểm nếu họ phát hiện ra một xu hướng di truyền liên quan đến hành vi liều lĩnh? Liệu chúng ta sẽ được yêu cầu gửi fax ADN của mình, thay vì sơ yếu lý lịch, cho các nhà tuyển dụng tiềm năng? Liệu một nhà tuyển dụng có thể yêu thích một ứng viên vì ADN của anh ta nhìn có vẻ tốt hơn? Liệu chúng ta có thể khởi kiện trong những trường hợp đó bởi có sự “phân biệt đối xử về di truyền”? Và liệu một công ty phát triển một sinh vật mới hoặc một cơ quan mới có thể đăng ký bằng sáng chế về những chuỗi ADN nào đó hay không? Rõ ràng là một người có thể sở hữu một con gà, nhưng liệu người đó có thể sở hữu toàn bộ một loài?