Dòng Đời – Nguyễn Trung

– Nguyên do sự lựa chọn của tôi là thế. – Má Sáu nhìn thẳng vào mặt ông Tám trong khi nói.

– Trời đất! – ông Tám buột miệng kêu lên như vậy, rồi ngồi yên, tư lự.

Mọi người chung quanh im phắc, vì trong đời họ chưa bao giờ được chứng kiến một cuộc đối thoại như thế.

…Phải rồi! Tất cả mọi chuyện khác hẳn ngày xưa và bắt đầu từ chỗ này! Trời đất, sao hôm nay ta mới tỉnh ngộ ra điều này… Là người dân tự do của một quốc gia độc lập! Đó là mục tiêu của cách mạng cơ mà…

Biết bao nhiêu suy nghĩ lướt đi rất nhanh trong đầu ông Tám. …Bài học đời! Bài học đời!.. Ông tự nhủ với mình như vậy, rồi tiếp tục câu chuyện:

– Vâng, người dân tự do của một quốc gia độc lập! Bà đã nhắc nhở tôi điều hệ trọng nhất mà tôi lại chậm hiểu nhất! Tôi không giấu bà sự chậm trễ đầy yếu kém này của chính mình… Tôi tin là những điều bà vừa nói ra, chắc chắn bà đã ngẫm nghĩ từ lâu. Thành thực cảm ơn bà… – đến đây ông Tám dừng lại, quay sang ông Tư Cương: – Tôi xin hỏi thêm, nếu ông Tư Cương là chủ, ông có xử sự giống như bà Sáu đây không ạ?

Ông Tư Cương chần chừ một lúc rồi mới mạnh dạn trả lời:

– Thực tình tôi đã nín thở, chỉ muốn nghe, không muốn nói. Nhưng bây giờ ông Tám đã hỏi thì tôi xin thưa: Tôi nghĩ còn nhiều cách làm chủ khác nữa ạ. Nhưng cách nào thì cũng giống cách nghĩ của bà Sáu đây ít nhất là hai điểm. Một là không gỡ cái xe đò ra từng mảnh trao vào tay những người không hiểu gì xe cộ, hai là nhất thiết không có chuyện đi xe không phải trả tiền!

– Cũng có thể sau chiến tranh cái cỗ xe đò kinh tế này bị hư chỗ này, hư chỗ kia, có khi phải làm thịt một vài xe quá rách nát để có phụ tùng thế vào cho nó chạy… Nhưng sẽ là một quyết định đầy khó khăn đấy, ông Tám à. Khi hãng xe Cánh Nhạn có nguy cơ chết non vì không cạnh tranh được, tôi đã phải bán tống bán tháo hai cửa hàng vải của mình lấy tiền đập vào, rồi quay vòng, rồi vay thêm. Trong vòng một năm, 3 xe lớn nhỏ trở thành 11 xe, từ đó tôi mới trụ được… – má Sáu giải thích thêm.

Ông Tám Việt ngẫm nghĩ một lúc:

– Phải chăng bà Sáu và ông Tư phê phán cán bộ cách mạng không biết làm kinh tế? Tôi hiểu thế có đúng không?

– Ông Tám à, trước khi về làm cho bà sáu Nhơn, bản thân tôi đã nhiều năm làm tài xế xe đò. – Ba Khang đỡ lời. – Thế mà ngồi lên cái xe đò đầu tiên bà Sáu giao cho, tôi vẫn phải học, vì nó khác mấy cái xe tôi lái trước đấy. Lúc đó chưa có hãng xe Cánh Nhạn đâu. Tôi vừa phải học làm chủ cái xe mới, lại phải học cách đi thế nào là hay nhất trên tuyến đường mới. Tưởng thế là xong, bà Sáu hỏi tôi: Làm thế nào xe có được nhiều giờ chở khách nhất, nghĩa là ít giờ chạy xe không, làm thế nào cạnh tranh được với những xe khác mà vẫn lãi, ít sự cố… Thế là tôi lại phải mò mẫm kế này kế khác mất gần hai năm trời…

– Chú Ba đang kể công với tôi về việc sáng lập ra hãng xe Cánh Nhạn đó! – má Sáu nói chêm vào.

– Tôi xin lỗi bà Sáu trước về sự thiếu tế nhị của tôi. – ông Tám Việt lựa lời. – Thực lòng tôi muốn biết tại sao bà có thể ví kinh tế Sài Gòn sau giải phóng giống chiếc xe bị thương? Thật là cách ví von sinh động.

Bà Sáu Nhơn cân nhắc thận trọng, nhưng câu trả lời hình như có sẵn ở trong đầu từ lâu rồi:

– Nghề kinh doanh của tôi ba chìm bảy nổi, chín long đong. Thành đạt nhiều, đổ vỡ cũng nhiều. Tôi đã một vài phen trắng tay. Đã thế có lúc tôi còn phải gánh đỡ cho các con tôi chuyện này chuyện khác. Ba đứa, ba nghề kinh doanh khác nhau! Tóm lại là sự bắt buộc của nghề nghiệp thôi. Sơ ý một chút thị trường diệt mình chết liền. Còn chuyện lừa đảo nhau trong làm ăn, rồi chuyện nhiễu nhương của quan chức, chuyện cánh nọ dựa vào quan thầy của mình táng cánh kia… Mấy chục năm qua tôi đã phải học cách chung sống với ma quỷ, giống như như người ta thường nói phải biết cách chung sống với bệnh phong! Tôi hiểu ý tốt của cách mạng là muốn làm các việc xoá bỏ thị trường để không còn mầm mống cho cái bệnh phong hủi này, song có phải là liều thuốc đúng không? Có làm được không!?.

– Bà Sáu phải nói thêm là xoá bóc lột của tư sản nữa chớ. – ông Tư nhắc nhở.

Bà Sáu chỉ cười, không đáp lại.

Ông Tám Việt nghe rất chăm chú, trong đầu ông tự nhủ mình nhiều điều. Một chuỗi những cuộc tranh luận không dứt suốt từ năm 1979 đến hết năm 1980 sống lại trong ký ức ông. Những cuộc tranh luận gay gắt, không phân thắng bại. Tất cả xoay quanh tình hình kinh tế đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình và tìm đường ra khỏi tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Mỹ thì đẩy mạnh bao vây cấm vận, Trung Quốc đánh chặn đầu chặn đuôi, viện trợ Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức chỉ còn nhỏ giọt vì hai nước này đang suy kiệt, các nước xã hội chủ nghĩa gần như không còn sức để giúp đỡ bất kể điều gì… Có những cuộc tranh luận thâu đêm, có những lần hai ba ngày liền ông Tám không về nhà…

Bà Sáu Nhơn dứt lời lâu rồi mà ông vẫn còn đang bận rộn với những điều ông rút ra được từ cuộc đối thoại hiếm có này. Ông gần như đang tự nói với mình nhiều điều.

Má Sáu Nhơn đoán biết được tâm trạng lo âu của ông Tám, má hiểu có thể bộc bạch nỗi lo canh cánh trong lòng với con người này:

– Ông Tám ạ, nếu ông không cho là tôi làm ông phật lòng, tôi xin đề nghị ông quan tâm đến câu chuyện lâu nay có quá nhiều người vượt biên di tản, gần như bất chấp cả tính mạng của mình có thể nguy hại! – má Sáu Nhơn cố tránh không nói những sự việc cụ thể đã xảy ra trên biển, trên biên giới…

Mặc dù đã tự chuẩn bị tinh thần cho mình trước khi đến dự bữa cơm tối này, trong đó có chuyện di tản, ông Tám vẫn không tránh khỏi giật mình – vì tính thẳng thắn của má Sáu Nhơn và vì tính nghiêm trọng của câu chuyện nêu ra, nhất là di tản đang là câu chuyện thời sự nóng bỏng kéo dài từ nhiều năm nay.

– Xin bà cứ nói hết suy nghĩ của mình, tôi nghĩ tôi đủ sức lắng nghe ạ.

– Dạ, tôi cũng đoán như vậy nên mới thưa chuyện này. Ông là chính khách, còn tôi là một bà mẹ, nhưng tôi chắc ông thông cảm được. Không phải ai khác, một trong những con tôi đã phải thốt lên với tôi: “…Má ơi, ở Thành phố này bây giờ nếu cái cột điện mà biết đi chắc nó cũng phải bỏ đất nước ra đi thôi!..” Nói thế chắc ông đủ hiểu…Trước khi ra đi, tất cả con cháu tôi quỳ xuống tế sống tôi… Ông không thể hình dung được giây phút xé lòng này… – mặt má Sáu hình như bỗng dưng quắt đanh lại, không một giọt nước mắt trên mặt, nhưng giọng má tụt hẳn xuống, hụt hơi. Nghỉ một lúc má nói tiếp: – …Anh Hai chúng can ngăn chúng thế nào cũng hổng được. Tôi cũng hết lời… Nói ra, ông đau một, tôi đau hai ba lần ông Tám à!

Tất cả mọi người trên bàn ăn hình như không ai dám nhúc nhích, gần như nín thở, cứ như thể một cử chỉ nhỏ cũng sẽ làm cho vết thương lòng trong mỗi người tóe máu.

Mãi ông Tám Việt mới nói được:

– Thưa, bà nói đúng. Tôi đau một, bà phải đau hai ba lần. Tôi không thể nói khác được. Thú thực với bà là có nhiều vấn đề sau chiến tranh chính tôi cũng không lường hết, lần lần mới hiểu rõ thêm.

– Đó mới chỉ là một lẽ thôi, ông Tám à. Theo tôi còn một điều quan trọng hơn thế nữa.

– Xin bà cứ nói.

– Sống trong Thành phố này mà có nhiều chuyện chính tôi cũng không lường được. Sau chiến tranh có nhiều cái sai đã đành, tôi hiểu được. Song tôi không ngờ là sau chiến tranh nhiều cán bộ, đảng viên hư hỏng nhanh quá! Mong đợi và thất vọng xung khắc nhau dữ quá! Chỗ này mới là cái chết ông Tám à!

Lại một luồng điện giật mạnh, ông Tám chết sững trong lòng.

– Nói thật lòng với ông Tám, có người còn nói mua chuộc cán bộ Việt Cộng rẻ hơn nhiều so với thời còn chế độ Sài Gòn. Còn chất lượng công việc và sự hống hách với dân thì không được chê!.. – ông Tư Cương thêm vào, muốn nói rõ ý má Sáu Nhơn.

– Vâng, những điều bà và ông Tư nói tôi biết lắm.

Những cái sai trong chính sách, cộng với sự hư hỏng của cán bộ đã dẫn đến thực trạng đau lòng này. Xin ông đừng giận, thằng Năm Thịnh nhà tôi hồi ấy có lúc gần như đánh nhau với cán bộ! Tôi biểu nó thế nào cũng hổng được!

– Vâng, quả là thế. Sự hư hỏng của cán bộ còn đáng sợ hơn nhiều lần so với những sai lầm trong chính sách. – ông Tám đáp lại.

– Nói như thế, tôi thấy ông Tám hiểu được câu chuyện và tôi không lo làm ông mếch lòng. Thật không sao hiểu nổi họ có thể hư nhanh đến thế! Cũng may là dân vẫn còn tin cách mạng lắm.

– Tôi thấy không được lạm dụng điều này, bà Sáu ạ. Kéo dài sẽ vô cùng nguy hiểm… Trước khi đến thăm bà, tôi đã hỏi kỹ chuyện ra đi của các gia đình nhà ta. Thực lòng tôi cũng không tưởng tượng được sự tình đến mức như thế, rồi nhìn cả vào thành phố, cả nước…

– Ông Tám thử coi, gia đình tôi còn như vậy, những gia đình khác sẽ như thế nào!.. – ngẫm nghĩ một lúc, má Sáu Nhơn nói tiếp: – …Tôi nói ra là để chia sẻ với ông Tám nỗi lo của mình, chuyện này không thể một sớm một chiều dịu đi ngay đâu. Thôi chúng ta nói chuyện khác đi.

Tác giả: